Chương 1 : Phần 4

Lên lớp Chín, tôi và Aki không học chung lớp nữa. Nhưng cả hai vẫn làm cán sự lớp, thế nên tuần nào chúng tôi cũng có cơ hội gặp nhau một lần trong các buổi họp cán sự. Hơn nữa, bắt đầu từ khoảng cuối học kỳ một, thỉnh thoảng Aki lại đến thư viện học bài. Tới khi nghỉ hè thì hầu như ngày nào em cũng tới. Sau khi Hội thao toàn thành phố kết thúc, vì không phải đến trường tập kiếm nữa, tôi dành hết thời gian rảnh rỗi đến thư viện làm thêm kiếm tiền.

Ngoài ra, sáng nào tôi cũng ngồi học bài trong phòng đọc có máy lạnh để chuẩn bị cho kỳ thi vào cấp ba sắp tới. Cứ thế, tôi và Aki có khá nhiều cơ hội gặp nhau. Mỗi lần như vậy, chúng tôi lại cùng ngồi học bài, lúc nghỉ thì đi ăn kem và tán gẫu đủ thứ.

“Không hiểu sao mình chẳng thấy áp lực gì cả,” tôi nói. “Đang nghỉ hè thế này, chẳng tập trung học hành được.”

“Như Matsumoto thì không cố gắng lắm cũng chẳng sao, đằng nào bạn cũng thuộc nhóm an toàn rồi mà.”

“Vấn đề không phải ở chỗ đó. Mình mới đọc một bài báo trên tạp chí Newton, bài báo đó nói là tới năm 2000, một thiên thạch lớn sẽ đâm vào trái đất khiến cho toàn bộ hệ sinh thái diệt vong.”

“À há.” Aki hờ hững liếʍ cây kem của mình.

“Sao cậu trông hờ hững thế nhỉ?” tôi nói với vẻ nghiêm túc. “Tầng ô zôn thì đầy lỗ hổng, rừng nhiệt đới cũng ngày một thưa dần. Cứ như thế này, tới lúc chúng ta thành ông già bà già thì có khi các sinh vật đã chẳng thể sống nổi trên trái đất này nữa rồi.”“Nguy quá nhỉ?”

“Nghe giọng cậu chả có vẻ nghiêm túc gì hết.”

“Xin lỗi nhé,” Aki nói. “Nhưng thực tình mình chẳng có cảm giác chuyện đó là thật chút nào. Thế Matsumoto có thực sự cảm nhận được chuyện đó không?”

“Thực ra thì cũng…”

“Không chứ gì?”

“Không cảm thấy cũng có khác gì đâu, cái ngày đó sớm muộn gì cũng sẽ đến thôi.”

“Vậy thì khi nào nó đến rồi hẵng hay.”

Nghe Aki nói thế, tôi cảm thấy đúng là cứ để mọi chuyện tới đâu hay tới đó.

“Những chuyện xa xôi như thế, giờ có nghĩ cũng chẳng giải quyết được gì đâu.”

“Thì cũng chỉ chừng mười năm nữa thôi mà…”

“Khi ấy bọn mình 25 tuổi rồi nhỉ,” Aki nói, nhìn về phía xa xăm. “Nhưng ai mà biết được từ giờ tới đó chúng mình sẽ thành ra như thế nào. Mình cũng vậy mà bạn cũng vậy.”

Tôi chợt nhớ tới cây hoa tú cầu hôm hai đứa leo núi Shiroyama. Từ dạo đó đến nay hẳn hoa phải nở đến hai lần rồi, nhưng chúng tôi vẫn chưa quay lại đó lần nào. Hàng ngày có cả mới những chuyện xảy ra làm tôi quên bẵng việc ngắm hoa tú cầu với Aki. Có vẻ như Aki cũng không khác gì. Dẫu mải nói về chuyện thiên thách rơi xuống trái đất hay tầng ô zôn bị hủy diệt, tôi vẫn có cảm giác rằng dù sao thì vào mùa hè năm 2000, cây tú cầu trên núi Shiroyama vẫn sẽ nở rộ. Thế nên cũng chẳng cần vội vàng làm gì, bởi thích thì lúc nào tới đó ngắm chẳng được.

Kỳ nghỉ hè cứ thế trôi qua. Hàng ngày tôi vẫn lo lắng về tương lai môi trường trái đát, đồng thời phải học thuộc những thứ “Cuộc đại xâm lăng La Mã” hay “Cromwell và nội chiến Anh quốc”, phải giải cả đống hệ phương trình và hàm bậc hai. Thỉnh thoảng tôi đi câu với bố, mua vài đĩa CD và vừa ăn kem vừa tán gẫu với Aki.

Đột nhiên có một lần Aki gọi tôi bằng “Saku-chan ơi!” Tôi giật mình đến mức nuốt ực luôn cả miếng kem đang ngậm trong miệng.

“Hả? Ở đâu ra cái tên đó đấy?”

“Mẹ bạn toàn gọi bạn như vậy còn gì?” Aki tủm tỉm cười.

“Cậu đâu phải mẹ mình!”

“Ừ, nhưng mà mình quyết định rồi. Từ giờ trở đi mình cũng sẽ gọi Matsumoto là Saku-chan.”

“Đừng tự tiện quyết định chuyện như vậy được không hả?”

“Mình đã quyết định thế rồi.”

Cứ như vậy, từ đó trở đi mọi chuyện của tôi đều để Aki quyết định hết, đến nỗi dần dà tôi chẳng còn biết mình là ai nữa.

Mới vào học kỳ hai, đang giờ nghỉ trưa, Aki đột nhiên xuất hiện trước mặt tôi với một cuốn sổ trên tay.

“Này, cầm lấy.” Aki đặt cuốn sổ lên bàn.

“Cái gì đây?”

“Nhật ký trao đổi.”

“Hử?”

“Saku-chan không biết à?”

Tôi ngó quanh quất rồi nói, “Ở trường đừng gọi mình như vậy được không hả!”

“Thế hồi xưa cha mẹ Saku-chan không trao đổi nhật ký à?”

Aki thậm chí còn không nghe tôi nói hay sao ấy.

“Này nhé, nhật ký trao đổi là để con trai và con gái ghi lại những sự việc, suy nghĩ và cảm nhận của bản thân trong ngày, rồi trao đổi cho nhau.”

“Mấy thứ rắc rối này mình không làm được đâu. Lớp cậu không có ai hợp hơn à?”

“Nhưng cái này đâu phải thứ để trao đổi với bất kỳ ai.” Aki có vẻ hơi giận dỗi.

“Mà cái này vẫn phải dùng bút mực hay bút bi viết à?”

“Chì màu cũng được.”

“Điện thoại không được à?”

Hiển nhiên là không. Aki chắp hai tay ra sau lưng, hết nhìn tôi rồi lại nhìn cuốn sổ. Tôi lớ ngớ định giở nhật ký ra đọc, Aki vội ngăn lại.

“Về nhà bạn mới được mở ra đọc. Đó là quy tắc của nhật ký trao đổi.”

Trang đầu tiên là phần tự giới thiệu. Aki viết đủ hết ngày tháng năm sinh, cung hoàng đạo, nhóm máu, thói quen, thức ăn và màu yêu thích, thậm chí còn có cả một đoạn phân tích tính cách bản thân nữa. Trang bên cạnh có hình một cô gái, chắc là Aki tự vẽ bằng bút chì màu, trên đó có ba chữ “bí mật”, “bí mật”, “bí mật” chỉ vào ba nơi ám chỉ số đo của em. Tôi nhìn vào cuốn sổ để mở, lầm bẩm, “Ồ, lằng nhằng quá!”

*****

Cô giáo chủ nhiệm lớp Aki qua đời đúng dịp Giáng sinh năm chúng tôi học lớp chín. Hồi học kỳ một dẫn lớp đi tham quan cô có vẻ vẫn khỏe mạnh, nhưng từ kỳ hai, cô không đến trường nữa. Aki cũng đôi lần nói với tôi là cô mỗi ngày một yếu đi, hình như bị bệnh ung thư thì phải. Khi mất cô chưa đến năm mươi tuổi. Lễ tang của cô giáo diễn ra vào ngày thứ hai của kỳ nghỉ đông. Cả lớp Aki và toàn bộ cán sự các lớp khối Chín đều đều đến dự. Đại sảnh không đủ chỗ cho tất cả học sinh nên chúng tôi phải đứng bên ngoài. Ngày hôm đó lạnh thấu xương. Tiếng tụng kinh cầu siêu tưởng chừng lê thê mãi không dứt. Đám học sinh chúng tôi đứng díu vào nhau, cố không bị chết cóng ở sân chùa này.

Cuối cùng thì lễ cầu siêu cũng kết thúc, tiếp đến là lễ truy điệu. Cô hiệu trưởng và vài người nữa đọc điếu văn. Aki cũng ở trong số đó. Khi ấy chúng tôi thôi đùn đẩy nhau mà đứng yên lắng nghe. Aki đọc lời chia buồn với một vẻ đĩnh đạc lạ thường. Không chút sụt sùi nào đượm trong giọng nói ấy. Tất nhiên, chúng tôi chỉ nghe tiếng Aki qua loa phóng thanh chứ không phải giọng tự nhiên nên âm thanh có đôi chút biến đổi. Dù vậy, tôi cũng nhận ra ngay đó chính là Aki. Giọng em nghe buồn buồn, vì thế có gì đó người lớn hơn. Tôi ít nhiều cảm thấy bâng khuâng trong dạ - em đã bỏ lại đám trẻ ấu trĩ chúng tôi, một mình tiến lên phía trước rồi.

Trong nỗi xúc cảm gần như tuyệt vọng, tôi ngó qua một rừng các mái đầu của đoàn người tới tham dự tang lễ để tìm kiếm Aki. Cuối cùng tôi cũng thấy em đang đứng trước cổng vào sảnh chính, đầu hơi cúi xuống micro đọc lời chia buồn. Trong khoảnh khắc ấy, tâm trí tôi như bừng tỉnh. Aki vẫn mặc bộ đồng phục đã quen thuộc từ rất lâu, nhưng nhìn từ đây, trông em như một người khác. Không, đó đúng là Aki, nhưng có cái gì đó rất quan trọng đã thay đổi nơi em. Tôi hầu như không để lọt vào tai những gì Aki đọc, hai mắt chỉ chăm chăm dán vào thân hình tưởng chừng như đang ở rất xa của em.

Một người đứng gần tôi nói, “Hirose đúng là Hirose!”

“Ừ, trông thế thôi mà có bản lĩnh lắm,” một người khác phụ họa.

Chợt vài tia nắng mặt trời len lỏi qua những đám mây mù mịt rọi xuống sân đền. Ánh sáng chiếu vào khiến Aki như sáng bừng lên, bóng dáng em nổi bật trên nền đại sảnh tối đen. Đây rồi, đây mới chính là Aki mà tôi biết. Là Aki vẫn hay trao đổi cuốn sổ nhật ký trẻ con kia với tôi, là Aki vẫn hay gọi tôi là “Saku-chan” cứ như thể hai đứa là bạn thân từ nhỏ. Aki thường ngày vẫn luôn kề cận như một thiếu nữ đang bắt đầu trưởng thành. Tựa hồ như một viên pha lê vốn vẫn ở đó, chỏng chơ trên bàn, bỗng trở nên rực rỡ lung linh ngay khi ta thay đổi góc nhìn một chút.

Một cảm giác muốn lao về phía trước bỗng nhiên ập tới trong tôi. Cùng với niềm hân hoan cuồn cuộn trào dâng trong cơ thể, lần đầu tiên tôi nhận thức được rằng mình cũng như bao đứa con trai khác vẫn thầm thương trộm nhớ Aki. Tôi đã hiểu rõ sự ganh ghét khi rõ ràng khi ngấm ngầm mà bọn con trai trong lớp dành cho mình. Không chỉ vậy, tôi thậm chí còn ghen với chính bản thân mình. Ghen tị vì mình may mắn quá đỗi mà dễ dàng được ở bên Aki nhiều như thế, ghen tị vì mình được cùng em trải qua những khoảnh khắc tươi đẹp nhất, và trái tim tôi quặn lại khi nghĩ về điều đó.