Tải app Android hoặc iOS để đọc truyện nhanh hơn

Hỗ trợ: Fanpage TruyenHD

Tiệc Quạ Đen

Chương 23: Arya

« Chương Trước
Mỗi đêm trước khi đi ngủ, cô đều lẩm bẩm cầu nguyện với chiếc gối của mình. “Ser Gregor,” cô bắt đầu. “Dunsen, Raff Ngọt Ngào, Ser Ilyn, Ser Meryn, thái hậu Cersei.” Đáng lẽ cô sẽ thì thầm cả những cái tên Nhà Frey vùng Crossing nữa, nếu cô biết tên bọn chúng. Một ngày nào đó mình sẽ biết, cô tự nhủ, và mình sẽ gϊếŧ tất cả bọn chúng.

Chẳng có lời thì thầm nào đủ nhỏ để không bị nghe thấy trong Đền Đen Trắng. “Nhóc,” một hôm, ông già tốt bụng lên tiếng, “mấy cái tên cháu thì thầm mỗi đêm là những ai thế?”

“Cháu có thì thầm cái tên nào đâu,” cô trả lời.

“Nói dối,” ông già đáp. “Mọi người đều nói dối khi họ sợ hãi. Một số người nói dối rất nhiều, còn một số khác thì ít thôi. Có những kẻ chỉ có một điều dối trá vĩ đại duy nhất, mà họ nói nó thường xuyên

đến nỗi họ tưởng đó là sự thật… dù một phần nhỏ trong họ vẫn biết đó là dối trá, và tất cả hiện lên trên mặt họ. Hãy nói cho ta những cái tên đó.”

Cô cắn môi. “Tên không quan trọng.”

“Có chứ,” ông già tốt bụng khăng khăng. “Nói cho ta đi, nhóc.”

Nói đi, hoặc là chúng ta sẽ tống cổ ngươi ra khỏi đây, cô nghe thấy như vậy. “Đó là những người cháu ghét. Cháu muốn chúng phải chết.”

“Chúng ta đã nghe rất nhiều những lời cầu nguyện như vậy trong ngôi đền này.”

“Cháu biết,” Arya nói. Jaqen H’ghar đã giúp cô thực hiện ba điều ước. Và tất cả những gì mình phải làm là thì thầm…

“Đó là lý do tại sao cháu đến chỗ chúng ta?” Ông già tốt bụng tiếp tục. “Để học ma thuật của chúng ta và sau đó gϊếŧ những người cháu ghét?”

Arya không biết phải trả lời như thế nào. “Có thể là như vậy.”

“Vậy thì cháu đến nhầm chỗ rồi. Cháu không phải là người quyết định ai sẽ sống, ai sẽ chết. Quyền năng đó thuộc về Đa Diện Thần. Chúng ta chỉ là đầy tớ của ngài, và thề sẽ làm theo ý ngài mà thôi.”

“Ồ.” Arya liếc nhìn dãy tượng đứng dọc theo các bức tường, quanh chân mỗi bức tượng là những cây nến cháy le lói. “Ông ấy là vị thần nào vậy?”

“Sao cơ, là tất cả bọn họ,” vị thầy tu trong bộ trang phục đen trắng nói.

Ông chưa bao giờ cho cô biết tên. Đứa trẻ gầy còm cũng vậy. Đứa con gái với đôi mắt to và khuôn mặt hốc hác ấy gợi cô nhớ đến một bé gái khác tên là Weasel. Giống như Arya, đứa trẻ gầy còm sống trong ngôi đền cùng với ba thầy dòng, hai người phục vụ và một đầu bếp tên Umma. Umma thích nói chuyện khi làm việc, nhưng Arya chẳng hiểu dù chỉ một từ. Những người còn lại không có tên, hoặc họ không muốn xưng danh cho kẻ khác biết: Một người phục vụ già nua, lưng ông lão còng xuống như một cái cung. Người còn lại mặt đỏ bừng và có lông mọc ra từ hai tai. Cô đinh ninh họ bị câm hết, cho đến khi nghe thấy họ cầu nguyện. Các thầy dòng thì trẻ hơn. Người lớn nhất tầm trạc tuổi cha cô; hai người

còn lại chỉ nhỉnh hơn Sansa chị cô một chút. Các thầy dòng cũng mặc hai màu đen trắng, nhưng áo

choàng của họ không có mũ và màu đen nằm bên trái, màu trắng bên phải. Còn với ông già tử tế và đứa trẻ gầy còm, màu sắc được bố trí ngược lại. Arya được mặc quần áo của người phục vụ: một chiếc áo dài bằng len không nhuộm, quần ống túm rộng, quần áo mặc trong bằng vải lanh và dép lê vải.

Chỉ có ông già tử tế nói được tiếng phổ thông. “Cháu là ai?” Ngày nào ông cũng hỏi cô như vậy.

“Không ai cả,” cô trả lời, cô từng là Arya của Nhà Stark, Arya Thấp Hèn, Arya Mặt Ngựa. Cô cũng từng là Arry, Chồn, Chim Non, Salty, Nan rót rượu, con chuột xám, con cừu, bóng ma của

Harrenhal... nhưng tất cả đều không thật, không phải là những gì sâu thẳm trong tim cô. Ở đó cô là Arya vùng Winterfell, con gái Lãnh chúa Eddard Stark và phu nhân Catelyn, người từng có các anh em trai là Robb, Bran và Rickon, một người chị gái tên Sansa, một con sói tuyết tên Nymeria và một người anh cùng cha khác mẹ tên Jon Snow. Ở đó, cô là một người quan trọng... nhưng đó không phải là câu trả lời ông ấy muốn.

Bởi bất đồng về ngôn ngữ nên Arya không có cách nào để giao tiếp với mọi người. Tuy nhiên, cô nghe họ nói và lẩm bẩm nhắc lại những từ cô nghe được khi cô đang làm việc. Tuy thầy dòng trẻ nhất bị mù nhưng anh ta lại được giao phụ trách những cây nến. Anh ta đi quanh ngôi đền với đôi dép lê mềm, vây quanh là tiếng lầm bầm của các bà già đến đây mỗi ngày để cầu nguyện. Dù không có mắt nhưng anh ta luôn phát hiện ra cây nến nào cháy hết. “Anh ta cảm nhận theo mùi hương,” ông già tốt bụng giải thích, “và không khí cũng ấm hơn ở những nơi có nến cháy.” Ông bảo Arya nhắm mắt và tự

mình trải nghiệm xem sao.

Họ cầu nguyện vào lúc bình minh trước khi ăn sáng. Họ quỳ quanh hồ nước đen ngòm và tĩnh lặng.

Có những ngày ông già tốt bụng dẫn dắt buổi cầu nguyện, nhưng có những hôm là đứa trẻ gầy còm.

Arya chỉ biết vài từ tiếng Braavos, những từ giống với tiếng Valyria. Vì thế cô lẩm bẩm lời cầu nguyện của riêng mình với Đa Diện Thần, bắt đầu bằng, “Ser Gregor, Dunsen, Raff Ngọt Ngào, Ser Ilyn, Ser Meryn, thái hậu Cersei.” Cô cầu nguyện trong im lặng. Nếu Đa Diện Thần là một vị thần thực thụ thì ông ta sẽ nghe thấy lời cô nói.

Những người cầu nguyện đến Đền Đen Trắng mỗi ngày. Hầu hết họ đều đến một mình hoặc ngồi một mình; họ châm nến ở các bệ thờ khác nhau, cầu nguyện bên hồ và đôi khi khóc lóc. Một số người

uống nước từ chiếc cốc đen và đi ngủ, nhưng phần lớn mọi người không uống. Ở đây không có các buổi lễ, không hát, không có những bài tán ca để tỏ lòng tôn kính tới thần linh. Ngôi đền chẳng bao giờ chật kín người. Thỉnh thoảng, những người đến cầu nguyện yêu cầu được gặp một thầy tu, và ông già tốt bụng hoặc đứa trẻ gầy còm sẽ đưa người đó xuống chính điện, nhưng việc này diễn ra không thường xuyên cho lắm.

Tượng ba mươi vị thần khác nhau xếp dọc các bức tường, vây quanh là những ngọn nến nhỏ. Theo quan sát của Arya, Người Đàn Bà Khóc là bức tượng được các bà già yêu thích nhất; những người giàu có thích Sư Tử Bóng Đêm, người nghèo thích Hành Giả Đội Mũ. Binh lính thắp nến dưới chân

Bakkalon, Đứa Trẻ Xanh Xao, thủy thủ thắp nến trước Trinh Nữ Ánh Trăng và Vua Biển Cả. Người Lạ Mặt cũng có bệ thờ, nhưng hầu như chẳng có ai cầu nguyện trước ông ta. Hầu như lúc nào cũng chỉ có một ngọn nến nhỏ cháy lập lòe dưới chân bức tượng. Ông già tử tế nói điều đó không quan trọng. “Ngài có vô vàn khuôn mặt và vô vàn đôi tai để lắng nghe.”

Ngọn đồi nhỏ nơi ngôi đền tọa lạc lỗ chỗ những lối đi được đυ.c xuyên qua đá. Phòng ngủ của các thầy tu và thầy dòng nằm ở tầng một, Arya và những người phục vụ ở tầng hai. Tầng thấp nhất là khu

vực cấm kỵ với tất cả mọi người, trừ các thầy tu. Chính điện linh thiêng nằm ở đó.

Khi không làm việc, Arya được tự do đi lang thang những nơi cô muốn trong các tầng hầm và kho chứa, chỉ cần cô không rời ngôi đền hay không xuống tầng hầm thứ ba là được. Cô tìm thấy một căn phòng đầy áo giáp và vũ khí: những chiếc mũ chạm khắc cầu kỳ, những tấm chắn ngực cũ mèm với hình thù kỳ cục, trường kiếm, đoản kiếm, dao găm, cung, thương dài với mũi hình chiếc lá. Một căn

hầm nữa chất đầy vải, lông dày và lụa lộng lẫy với vài chục màu sắc, bên cạnh là những chồng quần áo rách hôi hám và áo dài thô đã mòn xơ cả chỉ. Chắc chắn phải có phòng chứa vàng bạc châu báu nữa, Arya nghĩ. Cô tưởng tượng ra hàng chồng đĩa vàng, hàng bao tải bạc, đá sa-phia xanh như nước biển và những chuỗi ngọc trai to xanh mướt mắt.

Một hôm, ông già tốt bụng bất ngờ đυ.ng mặt cô và hỏi cô đang làm gì. Cô nói mình đi lạc.

“Cháu nói dối. Thật tệ là cháu nói dối quá dở. Cháu là ai?”

“Không ai cả.”

“Lại một câu nói dối nữa.” Ông thở dài.

Nếu là Weese, hắn sẽ đánh cô thừa sống thiếu chết nếu biết cô nói dối, nhưng ở Đền Đen Trắng thì khác. Khi cô đang phục vụ trong bếp, thỉnh thoảng Umma có đập cô bằng muỗng nếu cô đứng ngáng đường, nhưng ngoài ra không một ai vung tay đánh cô. Có lẽ họ chỉ vung tay gϊếŧ người, cô nghĩ vậy.

Mối quan hệ của cô với người đầu bếp rất tốt. Khi Umma dí dao vào tay cô và chỉ một củ hành, Arya sẽ thái nó. Khi Umma lôi cô đến trước một đống bột mỳ, Arya sẽ nhào bột cho đến khi đầu bếp bảo cô dừng lại (dừng lại là từ đầu tiên trong tiếng Braavos cô học được). Khi Umma đưa cho cô một

con cá, Arya sẽ lọc xương, xắt lát và cuộn chúng với những quả hạch mà đầu bếp đang đập dập. “Vùng nước lợ quanh Braavos rất dồi dào cá và nghêu sò đủ loại,” ông già tốt bụng giải thích. Một dòng sông nước nâu lờ đờ chảy vào phá từ phía nam, uốn lượn qua những vùng lau sậy, những hồ thủy triều và bãi bùn thủy triều. Trai và sò nhan nhản khắp nơi; vẹm xanh, cá xạ hương, ếch, rùa, cua bùn, ghẹ da báo, ba khía, lươn đỏ, lươn đen, lươn khoang, cá mυ"ŧ đá và hàu; tất cả đều thường xuyên xuất hiện trên những chiếc bàn bằng gỗ chạm trổ trong bữa ăn của các đầy tớ của Đa Diện Thần. Có vài đêm Umma ướp cá với muối biển và tiêu bột, hoặc nấu lươn với tỏi thái nhỏ. Thỉnh thoảng lắm đầu bếp mới dùng đến nghệ tây. Chắc hẳn Bánh Nóng sẽ rất thích nơi này, Arya nghĩ.

Bữa ăn đêm là khoảng thời gian cô yêu thích nhất. Đã lâu lắm rồi Arya không được đi ngủ với cái bụng no căng. Một vài đêm, ông già tốt bụng còn cho phép cô hỏi chuyện ông. Có lần cô đã hỏi ông tại

sao mọi người đến ngôi đền này đều có vẻ rất thanh thản; ở nhà, mọi người đều sợ chết. Cô vẫn nhớ thằng nhóc cận vệ đã khóc lóc như thế nào khi cô đâm hắn vào bụng, và Ser Amory Lorch đã van xin thế nào khi Goat cho người ném hắn vào chuồng gấu. Cô nhớ đến ngôi làng bên hồ Mắt Thần và dân làng ở đó đã la hét, gào khóc ra sao mỗi khi Gã Cù Lét hỏi đến vàng.

“Chết không phải là điều tồi tệ nhất,” ông già tốt bụng trả lời. “Đó là món quà của Ngài dành cho chúng ta, một kết thúc cho cảnh nghèo nàn và đau khổ. Vào ngày chúng ta ra đời, Đa Diện Thần cử một

thiên thần bóng tối đi theo mỗi người chúng ta trong cả cuộc đời. Khi những tội lỗi và đau khổ của chúng ta trở nên lớn quá sức chịu đựng, thiên thần đó sẽ nắm tay ta và dẫn chúng ta tới vùng đất bóng đêm, nơi những ngôi sao luôn cháy sáng. Những người tới uống bằng chiếc cốc đen là những người đang chờ đợi thiên thần của họ. Nếu họ sợ hãi, những cây nến sẽ trấn an họ. Khi cháu ngửi mùi những cây nến của chúng ta đang cháy, cháu nghĩ đến điều gì, cô bé?”

Winterfell, cô định nói như vậy. Mình ngửi thấy mùi tuyết, khói và lá thông. Mình ngửi thấy mùi chuồng ngựa. Mình ngửi thấy tiếng cười của Hodor và Jon đang tập luyện với Robb trên sân, còn

Sansa đang hát về chuyện tình của một cô tiểu thư ngu ngốc nào đó. Mình ngửi thấy mùi hầm mộ nơi các vị vua đá đang ngồi, mình ngửi thấy mùi bánh mỳ nóng trong lò, mình ngửi thấy mùi khu rừng thiêng. Mình ngửi thấy con sói, thấy mùi lông của nó, như thể nó vẫn đang ở đây bên cạnh mình. “Cháu chẳng ngửi thấy gì cả,” cô nói và chờ đợi xem ông già sẽ nói gì.

“Cháu nói dối,” ông nói, “nhưng cháu có thể giữ bí mật của mình nếu muốn. Arya Nhà Stark.” Ông chỉ gọi cô như vậy mỗi khi cô làm ông phiền lòng. “Cháu biết là cháu có thể rời nơi này. Cháu không

phải là người của chúng ta, vẫn chưa phải. Cháu có thể về nhà bất cứ khi nào cháu muốn.”

“Nhưng ông nói nếu đi, cháu sẽ không thể quay lại.”

“Đúng thế.”

Những lời đó khiến cô buồn bã. Syrio cũng thường nói vậy, Arya nhớ lại. Ông ấy suốt ngày nói câu đó. Syrio Forel đã dạy cô cách cầm kiếm và vì cô mà chết. “Cháu không muốn đi.”

“Vậy thì ở lại... nhưng hãy nhớ Đền Đen Trắng không phải là ngôi nhà cho trẻ mồ côi. Tất cả mọi người đều phải làm việc bên dưới mái nhà này. Valar Dohaeris, ở đây chúng ta nói như vậy. Cứ ở lại nếu cháu muốn, nhưng nhớ rằng chúng ta cần cháu phải biết nghe lời. Bất cứ khi nào và trong bất cứ

chuyện gì. Nếu không thể vâng lời, cháu buộc phải ra đi.”

“Cháu làm được.”

“Chúng ta sẽ chờ xem.”

Ngoài việc phụ giúp Umma, cô còn có những nhiệm vụ khác. Cô quét nền các tầng của ngôi đền, phục vụ và rót rượu trong các bữa ăn, sắp xếp những chồng quần áo của người chết, moi sạch ví họ và đếm những đồng xu lẻ. Mỗi sáng, cô sẽ đi bộ cạnh ông già tốt bụng khi ông đi vòng quanh đền để tìm xác người chết. Lặng lẽ như một cái bóng, cô tự nhủ và nhớ đến Syrio. Cô đem theo một chiếc đèn xách với cửa chớp bằng sắt dày. Ở mỗi góc phòng, cô lại mở cửa chớp đèn để tìm những xác chết.

Những xác chết rất dễ tìm. Họ đến Đền Đen Trắng, cầu nguyện trong một giờ, một ngày hay một năm, sau đó uống thứ nước đen trong hồ và nằm dài ra một chiếc giường đá đằng sau một vị thần nào đó. Họ nhắm mắt ngủ, và không bao giờ tỉnh dậy nữa. “Món quà của Đa Diện Thần có vô số hình thức khác nhau,” ông già tốt bụng nói với cô, “nhưng ở đây món quà đó luôn là sự dịu dàng.” Mỗi khi tìm thấy một xác chết, ông sẽ cầu nguyện và kiểm tra chắc chắn rằng người đó đã chết. Arya sẽ gọi những người phục vụ, những người có nhiệm vụ khiêng cái xác xuống hầm. Các thầy dòng sẽ cởi bỏ quần áo

và tắm cho những cái xác. Quần áo, tiền bạc và những thứ giá trị trên người họ sẽ được bỏ vào một chiếc thùng để phân loại. Những cái xác lạnh lẽo sẽ được đưa xuống chính điện bên dưới, nơi chỉ có các thầy tu có thể ra vào; điều gì sẽ xảy ra dưới đó thì Arya không được biết. Có một lần khi đang ăn bữa đêm, trong lòng cô bỗng dấy lên một mối nghi ngờ khủng khϊếp, cô đặt dao xuống và nhìn chằm chằm vào một lát thịt trắng tái nhợt. Ông già tốt bụng nhìn thấy vẻ kinh hoàng trên mặt cô. “Đó là thịt lợn, nhóc con ạ,” ông nói, “chỉ là thịt lợn thôi.”

Giường của cô làm bằng đá, nó làm cô nhớ đến Harrenhal và chiếc giường mà cô đã nằm khi còn đang cọ cầu thang cho Weese. Chiếc thảm được nhồi đầy giẻ rách thay vì rơm nên lổn nhổn hơn chiếc thảm cũ của cô ở Harrenhal, nhưng không dặm và ngứa như trước. Cô được đắp bao nhiêu chiếc chăn

tùy thích; những chiếc chăn len dày xanh đỏ và kẻ ca rô. Và cô được ở một mình một phòng. Cô cất giấu kho báu của mình ở đó: cây chĩa bạc, chiếc mũ rộng vành, đôi găng tay không ngón mà các thủy thủ trên thuyền Con Gái Thần Titan tặng, con dao găm, đôi bốt, thắt lưng, một ít đồng xu, quần áo cô vẫn mặc…

Và Mũi Kim.

Dù công việc bận rộn chiếm hết thời gian tập kiếm, nhưng cô vẫn tranh thủ luyện tập mỗi khi có thể. Cô đọ kiếm tay đôi với cái bóng của chính mình trong ánh sáng của cây nến xanh. Một đêm, đứa

trẻ gầy còm đi ngang qua và thấy Arya đang đánh kiếm. Cô bé không nói câu nào, nhưng ngày hôm sau, ông già tốt bụng dẫn Arya trở lại phòng. “Cháu phải vứt tất cả những thứ này đi,” ông chỉ đống tài sản của cô.

Arya cảm thấy khó chịu. “Chúng là của cháu.”

“Và cháu là ai?”

“Không ai cả.”

Ông nhặt cây chĩa bằng bạc của cô lên. “Thứ này thuộc về Arya của Nhà Stark. Tất cả những thứ này thuộc về cô ấy. Ở đây không có chỗ cho chúng. Ở đây cũng không có chỗ cho Arya. Đó là một cái tên quá kiêu hãnh, và chúng ta không có chỗ cho niềm kiêu hãnh đó. Ở đây, chúng ta đều là những đầy tớ.”

“Cháu vẫn phục vụ,” cô cảm giác bị tổn thương. Cô rất thích cây chĩa bạc đó.

“Cháu đóng vai một đầy tớ, nhưng trong thâm tâm cháu vẫn nghĩ mình là con gái của một lãnh chúa. Cháu đã lấy một cái tên khác, nhưng cháu chỉ khoác hờ nó lên mình như mặc một bộ đầm. Bên

trong vẫn luôn là Arya.”

“Cháu không bao giờ mặc đầm. Làm sao có thể chiến đấu trong cái váy ngu ngốc đó.”

“Tại sao cháu lại muốn chiến đấu? Cháu là kẻ đâm thuê chém mướn, khệnh khạng trong các ngõ hẻm và chỉ chực chờ để được lấy máu kẻ khác hay sao?” Ông thở dài. “Trước khi uống nước từ cốc lạnh, cháu phải dâng hiến toàn bộ con người mình cho Đa Diện Thần. Cơ thể cháu. Tâm hồn cháu. Bản thân cháu. Nếu không thể làm điều đó thì cháu sẽ phải rời nơi này.”

“Nhưng đồng xu bằng sắt…”

“…đã đưa cháu đến đây. Từ giờ trở đi cháu phải tự trả giá cho con đường mình đi, và cái giá đó không hề rẻ.”

“Cháu không có vàng.”

“Những thứ chúng ta cho cháu không thể mua được bằng vàng. Cái giá là ở cháu. Con người lựa chọn nhiều con đường khác nhau để đi qua thung lũng của khổ đau và nước mắt. Con đường của chúng ta là con đường gập ghềnh nhất. Không có mấy người sinh ra để đi trên con đường đó. Nó đòi hỏi sức

mạnh phi thường về cả thể chất lẫn tinh thần, cùng một trái tim rắn rỏi và mạnh mẽ.”

Trái tim mình giờ chỉ còn lại một lỗ trống huếch, Arya nghĩ, và không còn nơi nào để đi. “Cháu mạnh mẽ. Mạnh mẽ như ông vậy. Và cháu rất cứng rắn.”

“Cháu tin rằng đây là nơi duy nhất dành cho cháu.” Ông nói như thể ông nghe được những gì cô nghĩ trong đầu. “Nhưng cháu lầm rồi. Cháu sẽ tìm được những công việc nhẹ nhàng hơn trong gia đình

một thương nhân. Hay là cháu muốn trở thành một gái điếm hạng sang, với những bài hát ca ngợi vẻ đẹp của cháu? Chỉ cần nói một lời, chúng ta sẽ đưa cháu đến Ngọc Trai Đen hoặc Con Gái của Hoàng Hôn. Cháu sẽ được ngủ trên những cánh hoa hồng và mặc những chiếc váy lụa thướt tha, sột soạt theo mỗi bước đi, các lãnh chúa vĩ đại sẽ van xin để được là người đàn ông đầu tiên của cháu. Hay là cháu muốn có gia đình và những đứa con, nói ta nghe, chúng ta sẽ tìm cho cháu một người chồng. Một anh chàng học việc thật thà nào đó, hoặc là một ông già giàu có, một thủy thủ, bất cứ điều gì cháu thích.”

Cô chẳng muốn điều gì trong số đó. Cô lắc đầu không nói gì.

“Có phải cháu mơ về Westeros không, hả nhóc? Con thuyền Phu Nhân Ánh Sáng của Luco Prestayn sẽ ra khơi vào ngày mai, tới Gulltown, Duskendale, Vương Đô và Tyrosh. Cháu có muốn lên con

thuyền đó không?”

“Cháu chỉ đến từ Westeros thôi.” Đôi khi cô tưởng như cả nghìn năm đã trôi qua kể từ lúc cô chạy trốn khỏi Vương Đô, nhưng có lúc mọi chuyện lại giống như mới diễn ra ngày hôm qua, nhưng cô biết

mình không thể quay trở lại. “Cháu sẽ đi nếu ông không muốn cháu ở đây. Nhưng cháu sẽ không đến đó.”

“Vấn đề không phải là ta muốn hay không,” ông già tốt bụng nói. “Có thể Đa Diện Thần đã dẫn

cháu tới đây để phục vụ cho Ngài, nhưng khi ta nhìn cháu, ta chỉ thấy một đứa trẻ… và tệ hơn lại là một bé gái. Rất nhiều người phục vụ Đa Diện Thần trong nhiều thế kỷ qua, nhưng chỉ có một vài người trong số bề tôi của Ngài là phụ nữ. Phụ nữ đem sự sống đến cho thế giới này. Chúng ta đem đến món quà là cái chết. Không ai có thể đảm nhận cả hai công việc.”

Ông ta đang cố đuổi mình đi, Arya nghĩ, giống như lần trước ông ta dọa mình bằng con giun. “Cháu không quan tâm.”

“Cháu nên quan tâm đi. Ở lại, và Đa Diện Thần sẽ lấy đôi tai, mũi, lưỡi của cháu. Ngài sẽ lấy đôi mắt nâu của cháu vì chúng đã nhìn thấy quá nhiều. Ngài sẽ lấy đôi tay, đôi chân, cẳng tay, cẳng chân, và cả những nơi kín đáo của cháu. Ngài sẽ lấy đi cả ước mơ và hy vọng, tình yêu và thù hận. Những ai đã phục vụ cho Ngài đều phải từ bỏ tất cả những gì từng làm nên con người anh ta. Cháu có thể làm thế

không?” Ông nâng cằm cô lên và nhìn sâu vào đôi mắt cô, sâu đến mức nó làm cô rùng mình. “Không,” ông nói, “Ta nghĩ cháu không làm được đâu.”

Arya gạt tay ông ra. “Cháu làm được, nếu cháu muốn.”

“Arya Nhà Stark đã nói như vậy, kẻ dám ăn giun trong xác chết.”

“Cháu có thể từ bỏ bất cứ thứ gì cháu muốn!”

Ông chỉ đống báu vật của cô. “Vậy thì hãy bắt đầu với những thứ kia.”

Đêm hôm đó sau bữa tối, Arya quay lại phòng, cởi bỏ áo ngoài và đọc thầm những cái tên, nhưng cô không ngủ được. Cô thả mình xuống chiếc nệm nhồi giẻ rách và cắn môi. Cô cảm nhận được lỗ

thủng trong ngực, nơi trước đây trái tim cô ở đó.

Trong đêm tối cô bật dậy, mặc bộ đồ cô đã mặc ở Westeros và thắt đai đeo kiếm. Mũi Kim lủng lẳng một bên hông, và con dao găm ở phía bên kia. Với chiếc mũ rộng vành trên đầu, đôi găng tay không ngón nhét vào thắt lưng và cây chĩa bạc trong tay, cô lén đi lên cầu thang. Ở đây không có chỗ cho Arya Nhà Stark, cô nghĩ. Chỗ của Arya là ở Winterfell, chỉ có điều Winterfell đã không còn. Khi tuyết rơi và những cơn gió mạnh thổi đến, con sói cô đơn sẽ chết, nhưng cả bầy sói sẽ sống. Tuy nhiên, cô lại chẳng có bầy. Bọn chúng đã gϊếŧ hết bầy đàn của cô, Ser Ilyn, Ser Meryn và thái hậu, và khi cô cố gắng nhập vào một bầy mới, tất cả bọn họ lại bỏ đi. Bánh Nóng, Gendry, Yoren, Lommy Tay Xanh, ngay cả Harwin, kẻ trước đây là người dưới trướng cha cô. Cô đẩy cửa bước ra ngoài khoảng không

tối đặc.

Đây là lần đầu tiên cô ra ngoài kể từ khi bước chân vào ngôi đền. Bầu trời u ám, sương mờ che

phủ mặt đất như một chiếc chăn xám cũ sờn. Phía bên phải, cô nghe thấy tiếng cánh guồng đập nước trong kênh. Braavos, thành phố bí mật, cô nghĩ. Cái tên có vẻ rất phù hợp. Cô bò xuống những bậc thang dốc đứng dẫn ra một bến tàu kín đáo, sương mù cuộn lên quanh chân cô. Trời nhiều sương đến nỗi cô không nhìn thấy mặt nước, nhưng cô nghe thấy tiếng nước vỗ nhè nhẹ vào bờ đá. Xa xa có ánh sáng le lói phát ra trong không gian ảm đạm, là ánh lửa đêm đốt trong đền thờ của các thầy tu đỏ, cô nghĩ vậy.

Cô dừng lại bên mép nước với cây chĩa bạc trong tay. Nó được làm bằng bạc thật và rất rắn. Nhưng nó không phải của cô. Salty đưa nó cho cô. Cô thả cây chĩa xuống và nghe tiếng tõm nhè nhẹ khi nó chìm xuống dưới nước. Tiếp theo là chiếc mũ rộng vành của cô, sau đó là đôi găng tay. Chúng cũng là của Salty. Cô dốc chiếc túi ra lòng bàn tay; 5 đồng bạc, 9 đồng tám xu, vài đồng bốn xu, một xu và nửa xu. Cô rải chúng xuống nước. Tiếp theo là đôi bốt. Chúng tạo ra tiếng tõm lớn nhất. Rồi đến

con dao găm mà cô lấy được từ tên cung thủ đã xin Chó Săn tha mạng. Đai đeo kiếm cũng được thả xuống kênh. Áo choàng, áo dài chùng, quần ống túm, đồ lót, tất cả mọi thứ. Ngoại trừ Mũi Kim.

Cô đứng ở rìa cầu cảng, tái mét, nổi gai ốc và run rẩy trong màn sương. Trong tay cô, Mũi Kim dường như đang thì thầm với cô. Đâm chúng bằng đầu nhọn, nó nói, và đừng nói với Sansa! Dấu vết của Mikken vẫn lưu lại trên lưỡi kiếm. Đó chỉ là một thanh kiếm thôi mà. Nếu mình cần kiếm thì trong

lâu đài có đến cả trăm chiếc. Mũi Kim quá nhỏ để được coi là một thanh kiếm thực sự, và cũng chỉ hơn đồ chơi một chút thôi. Khi Jon tặng nó cho cô, khi cô chỉ là một đứa con gái bé xíu và ngu ngốc. “Chỉ là một thanh kiếm thôi,” lần này cô nói thành tiếng…

...Nhưng không phải vậy.

Mũi Kim là Robb, là Bran, là Rickon, là cha mẹ cô và thậm chí cả Sansa. Mũi Kim là những bức tường xám của Winterfell và là tiếng cười của mọi người trong đó. Mũi Kim là tuyết mùa hè, là những

câu chuyện của Già Nan, là cây đước với những tán lá đỏ và khuôn mặt hình thù đáng sợ, là mùi đất nồng ngai ngái của khu vườn kính, là âm thanh của gió phương bắc thổi vào cửa sổ phòng cô lạch cạch. Mũi Kim là nụ cười của Jon Snow. Anh ấy thường xoa tóc mình và gọi mình là “em gái nhỏ,” cô nhớ lại, và đột nhiên đôi mắt cô ngân ngấn nước.

Polliver đã ăn cắp thanh kiếm khi người của Núi Yên Ngựa bắt giam cô, nhưng khi cô và Chó Săn bước vào nhà trọ ở ngã tư, cô đã thấy nó ở đó. Các vị thần muốn mình giữ Mũi Kim. Không phải Thất Diện Thần, cũng không phải thần Đa Diện, mà là các vị thần của cha cô, các cựu thần phương bắc. Đa Diện Thần có thể có tất cả, nhưng ông ấy không thể có thứ này được.

Cô trèo lên những bậc thang, tя͢ầи ͙ȶя͢υồиɠ như một đứa bé mới đẻ và trong tay nắm chặt Mũi Kim. Lên được nửa đường, một trong những tảng đá lung lay dưới chân cô. Arya quỳ xuống và cậy xung quanh rìa viên đá bằng ngón tay. Ban đầu nó không động đậy, nhưng cô vẫn tiếp tục đào và cậy lớp vữa bị vỡ bằng móng tay. Cuối cùng, tảng đá cũng di chuyển. Cô gồng mình dùng cả hai tay đẩy. Một

khe nứt hiện ra trước mặt cô.

“Ở đây mày sẽ an toàn,” cô nói với Mũi Kim. “Sẽ không ai biết mày ở đâu, trừ tao.” Cô để thanh kiếm và bao kiếm bên dưới bậc thang, sau đó đẩy viên đá trở lại chỗ cũ, vì thế trông nó giống hệt như những viên đá khác. Khi trèo lên để quay lại đền, Arya đếm những bậc thang để sau này cô biết phải

tìm lại thanh kiếm ở đâu. Đến một ngày nào đó cô sẽ cần nó. “Một ngày nào đó,” cô tự thì thầm với chính mình.

Cô chưa bao giờ nói cho ông già tốt bụng việc cô làm, nhưng ông ấy vẫn biết. Đêm tiếp theo, ông đến phòng cô sau bữa điểm tâm đêm. “Nhóc con,” ông nói, “lại đây ngồi với ta. Ta có một câu chuyện

muốn kể cho cháu.”

“Câu chuyện gì ạ?” Cô lo lắng hỏi.

“Câu chuyện về khởi đầu của chúng ta. Nếu muốn trở thành một người trong số chúng ta, cháu phải hiểu rõ chúng ta là ai và xuất hiện như thế nào. Mọi người có thể rỉ tai nhau về nhóm Vô Diện của

Braavos, nhưng lịch sử của chúng ta còn lâu đời hơn cả Thành Phố Bí Mật. Trước thời thần Titan trị vì, trước cả thời Lột Mặt Nạ Uthero, và trước cả thời Sáng Lập. Chúng ta sinh con đẻ cái ở Braavos giữa sương mờ miền bắc, nhưng nguồn gốc chúng ta là ở Valyria giữa đám nô ɭệ đáng thương, những kẻ phải làm việc cật lực trong hầm mỏ sâu bên dưới Mười Bốn Ngọn Lửa vẫn thắp sáng Vùng Tự Do Valyria cổ trong những đêm đen. Hầu hết các khu mỏ đều là nơi tối tăm lạnh lẽo trong núi đá, nhưng

Mười Bốn Ngọn Lửa là dãy núi lửa đang hoạt động với những mạch dung nham nóng chảy và tâm nhiệt. Vì thế các khu mỏ ở Valyria cổ luôn rất nóng, và chúng ngày một trở nên nóng hơn khi những hầm lò được khoan xuống ngày một sâu hơn. Nô ɭệ phải làm việc khổ sai trong một cái lò. Đá xung quanh họ nóng đến nỗi không thể chạm tay vào được. Không khí tanh mùi lưu huỳnh khiến phổi họ héo úa. Gan bàn chân họ bỏng rộp cho dù họ đi loại xăng đan dày nhất. Thỉnh thoảng khi phá tường để tìm vàng, họ chỉ tìm thấy hơi nước, những mạch nước sôi hoặc nham thạch. Có những hầm lò thấp đến nỗi họ không thể đứng thẳng lưng mà phải bò hoặc cúi lom khom. Và trong những hầm lò đỏ rực tối tăm đó còn có lũ rồng đất nữa.”

“Giun đất ư?” Cô nhíu mày hỏi.

“Rồng đất phun lửa. Một số người nói chúng là loài vật gần giống rồng, vì chúng cũng khè ra lửa. Nhưng thay vì bay lượn trên trời, chúng đào đất và đá. Nếu những truyền thuyết xưa là thật thì ở Mười Bốn Ngọn Lửa có rồng đất trước cả khi loài rồng xuất hiện. Những con con chỉ bé bằng cẳng tay cháu thôi, nhưng khi lớn chúng có thể mang kích thước khổng lồ, và chúng chẳng ưa gì con người cả.”

“Chúng có gϊếŧ những người nô ɭệ không?”

“Những cái xác bị đốt cháy đen vẫn thường được tìm thấy trong các hầm lò nơi đá bị nứt hoặc lỗ chỗ những lỗ thủng. Thế nhưng, những khu mỏ vẫn tiếp tục được khoan xuống sâu hơn. Dù nô ɭệ có bỏ

mạng trong hầm lò, chủ của họ cũng chẳng thèm để mắt. Người ta coi vàng, vàng đỏ và bạc quý giá hơn tính mạng của đám nô ɭệ, bởi giá của nô ɭệ rất rẻ mạt ở Vùng Tự Do ngày xưa. Trong thời chiến, người Valyria bắt hàng ngàn nô ɭệ. Trong thời bình họ nuôi nô ɭệ trong nhà, chỉ có những kẻ tồi tệ nhất bị đưa xuống khu mỏ và chết mòn trong hầm tối.”

“Bọn họ không vùng lên chiến đấu sao?”

“Có. Một số người,” ông nói. “Các cuộc nổi loạn rất phổ biến trong các hầm mỏ, nhưng hầu như chẳng đem lại kết quả gì. Các lãnh chúa rồng của Vùng Tự Do cổ đại vẫn rất mạnh về ma thuật, và

hiếm có ai dám liều mạng coi thường họ. Người đầu tiên dám làm điều đó là một người trong nhóm Vô Diện.”

“Ông ta là ai?” Arya buột miệng trước khi kịp dừng lại suy nghĩ.

“Không ai cả,” ông trả lời. “Một số người nói ông ta cũng là nô ɭệ. Những người khác khăng khăng cho rằng ông ta là con của một chủ thái ấp với dòng dõi cao quý. Một số người thậm chí còn nói rằng ông ta là một đốc công, nhưng thương cảm trước hoàn cảnh của những kẻ khổ sai. Sự thật chẳng có ai

biết rõ. Dù là ai thì ông ta cũng đã sống giữa những người nô ɭệ và nghe họ cầu nguyện. Đàn ông từ hàng trăm đất nước khác nhau lao động trong các hầm mỏ, và mỗi người cầu nguyện với vị thần của riêng mình, bằng thứ tiếng của dân tộc mình, nhưng tất cả đều cầu nguyện một điều giống nhau. Họ muốn được giải thoát, được chấm dứt nỗi đau khổ. Một điều thật nhỏ nhoi và đơn giản. Thế nhưng các vị thần của họ không trả lời, và họ vẫn tiếp tục phải chịu đựng. Các vị thần của họ điếc hết rồi sao? Ông ta tự hỏi… cho đến khi ông ta nhận ra một điều trong khu hầm tối tăm đỏ rực ấy.”

“Tất cả các vị thần đều có bề tôi, những người đàn ông và đàn bà phục vụ cho họ, giúp họ làm những công việc trên trái đất. Dường như những nô ɭệ đó không khóc lóc van xin với hàng trăm vị thần khác nhau, mà chỉ một vị thần duy nhất với hàng trăm khuôn mặt… và ông ta là bề tôi của vị thần đó.

Ngay đêm hôm đó, ông ta chọn một người nô ɭệ đáng thương nhất, kẻ cầu xin sự giải thoát một cách nghiêm túc nhất, và giải phóng anh ta khỏi cuộc sống đọa đày. Món quà đầu tiên đã được trao đi.”

Arya lùi lại. “Ông ta gϊếŧ người nô ɭệ ư?” Điều đó nghe không đúng cho lắm. “Đáng lẽ ông ta phải gϊếŧ bọn chủ chứ!”

“Ông ấy đem món quà đến cho họ nữa... nhưng đó chỉ là một truyền thuyết thôi, đừng nên kể với ai.” Ông ngẩng đầu lên. “Cháu là ai, nhóc con?”

“Không ai cả.”

“Nói dối.”

“Sao ông lại biết? Đó có phải ma thuật không?”

“Một người không cần phải là phù thủy mới biết được đâu là sự thật, đâu là giả dối, chỉ cần anh ta có mắt. Cháu chỉ cần học cách đọc vị khuôn mặt thôi. Hãy nhìn vào đôi mắt. Miệng. Các thớ cơ ở đây, các góc xương hàm, và ở đây, giữa cổ với vai.” Ông chạm nhẹ vào cô bằng hai ngón tay. “Một số kẻ nói dối sẽ chớp mắt. Một số người sẽ nhìn chằm chằm. Một số người quay đi. Một số sẽ liếʍ môi. Rất

nhiều người che miệng ngay trước khi buông ra một lời nói dối, như thể để che đậy sự gian trá của

mình vậy. Một số dấu hiệu khác có thể tinh vi hơn, nhưng chúng luôn ở đó. Một nụ cuời thực sự và một nụ cười giả tạo có thể trông giống nhau, nhưng chúng cũng khác nhau như bình minh với hoàng hôn. Cháu có phân biệt được bình minh và hoàng hôn không?”

Arya gật đầu, dù cô không dám chắc là mình có thể làm được hay không.

“Vậy thì cháu có thể học cách phát hiện nói dối... một khi cháu làm được điều đó, sẽ chẳng có bí mật nào qua mắt được cháu cả.”

“Ông hãy dạy cháu đi.” Cô sẵn sàng trở thành kẻ hoàn toàn vô danh nếu đó là cái giá phải trả.

Không là ai cả, và sẽ không có lỗ hổng nơi trái tim.

“Cô ấy sẽ dạy cho cháu,” ông già tốt bụng nói khi đứa trẻ gầy còm xuất hiện ngoài cửa. “Hãy bắt đầu bằng việc học nói tiếng Braavos. Nếu cháu không thể hiểu và nói được thì còn làm gì được nữa? Đổi lại cháu cũng sẽ dạy cô ấy ngôn ngữ của cháu. Hai người sẽ học hỏi lẫn nhau. Cháu đồng ý chứ?”

“Vâng,” cô nói, và từ thời khắc đó cô trở thành người học việc trong Đền Đen Trắng. Bộ quần áo đầy tớ của cô được mang đi và thay vào đó là một chiếc áo choàng. Chiếc áo choàng có màu đen trắng và mềm mại như chiếc chăn đỏ cũ của cô hồi còn ở Winterfell. Bên trong, cô mặc đồ lót bằng vải lanh

trắng và áo mặc trong màu đen dài qua đầu gối.

Từ đó trở đi, cô và đứa trẻ gầy còm dành thời gian cùng nhau chỉ trỏ, và chạm vào các đồ vật, mỗi người đều cố gắng dạy cho người kia một vài từ trong ngôn ngữ của mình. Ban đầu là những từ đơn

giản như cốc, nến, giày; sau đó là những từ khó hơn, rồi đến cả câu. Ngày xưa, Syrio Forel thường bắt Arya đứng trên một chân cho đến khi cô chao đảo sắp ngã. Sau đó, ông bắt cô đuổi theo lũ mèo. Cô đã nhảy vũ điệu của nước trên những cành cây, trên tay là que gậy dùng làm kiếm. Tất cả những thứ đó đều rất khó, nhưng việc này còn khó hơn.

Thậm chí việc khâu vá còn vui hơn là học tiếng, cô tự nhủ khi sau một đêm đã quên hết một nửa số từ cô biết, và phát âm nửa còn lại tệ đến nỗi đứa trẻ gầy còm phải phá lên cười. Câu cú của mình cũng

trúc trắc, khúc khuỷu như những mũi khâu của mình ngày xưa vậy. Nếu đứa bé không quá nhỏ bé và gầy gò thì Arya đã đấm nát cái bản mặt ngu ngốc của nó. Thay vào đó, cô chỉ biết cắn môi. Quá tối dạ để tiếp tục học, nhưng cũng quá ngu ngốc để có thể từ bỏ.

Đứa trẻ gầy còm nói được tiếng phổ thông nhanh hơn. Một hôm, trong bữa ăn đêm, cô quay sang Arya và hỏi, “Cậu là ai?”

“Không ai cả,” Arya trả lời bằng tiếng Braavos.

“Cậu nói dối,” đứa trẻ gầy còm nói. “Cậu cần nói dối được hơn.”

Arya phá lên cười. “Được hơn? Phải nói là tốt hơn, đồ ngốc.”

“Tốt hơn, đồ ngốc. Tôi sẽ dạy cho cậu.”

Ngày tiếp theo, họ bắt đầu trò chơi nói dối, lần lượt một người hỏi và một người trả lời. Đôi khi câu trả lời là thật, và đôi khi là nói dối. Người hỏi phải cố đoán xem đâu là thật, đâu là giả. Dường như đứa trẻ gầy còm luôn biết rõ câu trả lời. Còn Arya thì phải đoán. Hầu như lần nào cô cũng đoán sai.

“Cậu bao nhiêu tuổi rồi?” Đứa trẻ gầy còm hỏi cô bằng giọng Phổ Thông. “Mười,” Arya nói và giơ mười ngón tay lên. Cô nghĩ cô vẫn đang 10 tuổi, dù cô không chắc chắn cho lắm. Người Braavos

đếm ngày khác so với ở Westeros. Tất cả những gì cô biết là cô đã qua ngày lễ đặt tên của mình.

Đứa trẻ gầy còm gật đầu. Arya gật đầu lại và cố gắng diễn đạt tốt nhất bằng tiếng Braavos, “Cậu bao nhiêu tuổi?”

Đứa trẻ gầy còm giơ mười ngón tay. Mười ngón tay lần nữa, rồi một lần nữa. Và sau đó là sáu. Mặt cô ta vẫn điềm tĩnh. Cô ta không thể nào 36 tuổi được, Arya nghĩ. Đó chỉ là một cô bé. “Cậu nói dối,” cô nói. Đứa trẻ gầy còm lắc đầu và giơ các ngón tay một lần nữa: Mười, mười, mười và sáu. Cô

nói ba mươi sáu, và bảo Arya đọc theo.

Ngày hôm sau, cô nói với ông già tốt bụng về điều đứa trẻ gầy còm nói. “Cô ấy không nói dối đâu,” vị thầy tu khẽ cười và nói. “Người cháu gọi là đứa trẻ gầy còm thực ra là một phụ nữ trưởng

thành, người đã dành cả đời phục vụ thần Đa Diện. Cô ấy dâng cho Ngài tất cả con người mình, tất cả những gì cô ấy có trong quá khứ, và tất cả sự sống trong người cô ấy.”

Arya cắn môi. “Cháu sẽ giống như cô ấy sao?”

“Không,” ông nói, “trừ khi cháu muốn như vậy. Chính những chất độc đã khiến cô ấy có hình dáng như cháu thấy.”

Chất độc. Giờ thì cô đã hiểu. Mỗi buổi tối sau khi cầu nguyện, đứa trẻ gầy còm sẽ đổ chất lỏng trong một chiếc bình bằng đá vào hồ nước đen.

Đứa trẻ gầy còm và ông già tốt bụng không phải là hai đầy tớ duy nhất của Đa Diện Thần. Thỉnh thoảng những người khác vẫn tới thăm Đền Đen Trắng. Gã béo có đôi mắt đen dữ tợn, cái mũi khoằm

và một mồm đầy những chiếc răng vàng. Một người có khuôn mặt nghiêm nghị không bao giờ biết cười; với đôi mắt xám lờ mờ và đôi môi thâm dày. Một người đàn ông đẹp trai có màu râu thay đổi liên tục mỗi lần cô gặp anh ta, cái mũi cũng khác, nhưng anh ta chưa lúc nào quên tỏ ra nhã nhặn. Ba người đó đến thường xuyên nhất, nhưng ngoài ra còn có những kẻ khác nữa: một gã mắt lác, một tay tiểu quý tộc và một người đàn ông sắp chết đói. Có lần gã béo và gã mắt lác đến cùng một lúc. Umma sai Arya đến rót nước cho họ. “Khi không rót nước, cháu phải đứng yên như một bức phù điêu khắc trên đá,” ông già tốt bụng nói. “Cháu làm được điều đó không?”

“Được.” Trước khi học di chuyển, cháu phải học đứng yên, Syrio Forel đã dạy cô điều đó từ lâu, hồi ở Vương Đô, và cô vẫn còn nhớ. Cô từng là hầu bàn rót rượu cho Roose Bolton ở Harrenhal, và

hắn sẽ lột da cô nếu cô làm sánh rượu ra ngoài.

“Tốt,” ông già tốt bụng nói. “Nếu cháu mù và điếc nữa thì tốt nhất. Cháu có thể nghe thấy nhiều thứ, nhưng cháu phải mặc kệ cho chúng đi vào tai này và trôi ra ở tai kia. Đừng bao giờ cố lắng nghe.”

Arya còn nghe nhiều thứ như thế hơn nữa trong đêm hôm đó, nhưng hầu như tất cả đều được nói bằng tiếng Braavos, và cô hầu như chẳng hiểu được nổi một phần mười. Tính như sỏi đá, cô tự nhủ.

Phần khó nhất là cố gắng để không ngáp. Trước khi đêm xuống, đầu óc cô lơ đễnh đi lang thang. Đứng đó với chiếc bình trong tay nhưng cô mơ thấy mình là một con sói chạy nhảy tự do trong khu rừng tràn ngập ánh trăng, với một đàn sói lớn đang hú rít xung quanh.

“Những người còn lại có phải đều là thầy tu không?” Cô hỏi ông già tốt bụng vào sáng hôm sau. “Đó có phải khuôn mặt thật của họ không?”

“Cháu nghĩ sao, cô bé?”

Cô nghĩ là không. “Jaqen H’ghar cũng là một thầy tu đúng không ạ? Liệu Jaqen có quay lại

Braavos nữa không?”

“Ai?” Ông hỏi, có vẻ hoàn toàn không biết gì.

“Jaqen H’ghar. Anh ta cho cháu đồng xu bằng sắt.”

“Ta không biết ai có cái tên đó, cô bé ạ.”

“Cháu đã hỏi làm sao anh ta có thể thay đổi khuôn mặt, và anh ta nói không khó hơn việc nghĩ ra một cái tên mới, nếu biết cách.”

“Thế sao?”

“Ông dạy cháu cách thay đổi khuôn mặt được không?”

“Nếu cháu muốn học.” Ông dùng tay nâng cằm cô lên và quay đầu cô sang bên. “Phồng má lên và lè lưỡi ra.”

Arya phồng má và lè lưỡi.

“Đấy, mặt cháu thay đổi rồi.”

“Ý cháu không phải thế. Jaqen dùng ma thuật cơ.”

“Mọi phép thuật đều có cái giá của nó, cô bé ạ. Phép thuật huyền bí phải đổi bằng nhiều năm cầu nguyện, hy sinh và học tập.”

“Nhiều năm?” Cô mất tinh thần.

“Nếu dễ dàng thì ai cũng làm được. Cháu cần biết đi trước khi biết chạy. Tại sao phải dùng phép thuật, khi có thể sử dụng những mánh khóe của diễn viên kịch?”

“Cháu cũng chẳng biết mánh khóe nào của diễn viên kịch cả.”

“Vậy thì hãy tập tạo ra những khuôn mặt khác nhau. Bên dưới da là những thớ cơ. Hãy học cách sử dụng chúng. Khuôn mặt là của cháu. Khuôn mặt tươi cười hay cáu kỉnh không phải đột nhiên xuất hiện.

Nụ cười phải là một đầy tớ, và chỉ đến khi nào cháu triệu tập. Hãy học cách điều khiển khuôn mặt mình.”

“Chỉ cho cháu đi.”

“Phồng má lên.” Cô làm theo. “Đẩy lông mày lên. Không, cao hơn.” Cô cũng làm theo. “Tốt. Để xem cháu giữ như vậy được bao lâu. Sẽ không lâu đâu. Ngày mai cháu cũng tập như vậy. Cháu sẽ tìm thấy một cái gương kiểu Myr trong tầng hầm. Hãy luyện tập trước gương một tiếng mỗi ngày. Mắt, lỗ mũi, má, tai, môi, học cách điều khiển tất cả bọn chúng.” Ông nâng cằm cô lên. “Cháu là ai?”

“Không ai cả.”

“Nói dối. Một lời nói dối đáng buồn, nhóc con ạ.”

Ngày hôm sau, cô tìm được chiếc gương kiểu Myr, và đều đặn mỗi sáng và mỗi tối, cô ngồi trước gương cùng hai cây nến hai bên tập tạo những khuôn mặt. Hãy điều khiển khuôn mặt của mày, cô tự

nhủ, và mày sẽ nói dối thành công.

Không lâu sau đó, ông già tốt bụng sai cô giúp các thầy dòng chuẩn bị những cái xác. Công việc tất nhiên không khổ bằng việc cọ cầu thang cho Weese. Thỉnh thoảng nếu cái xác quá to béo, cô sẽ phải

đánh vật với nó, nhưng hầu hết, những cái xác đều là xương khô trong lớp da bọc nhăn nheo. Arya nhìn họ mỗi khi tắm rửa cho họ và tự hỏi điều gì đã đem họ đến với chiếc hồ đen. Cô nhớ đến một truyền thuyết trước đây Già Nan vẫn kể, về việc thỉnh thoảng trong mùa đông dài dằng dặc, những người đã sống lâu quá thời gian cho phép sẽ thông báo với mọi người rằng họ đi săn. Các con gái họ sẽ khóc, còn con trai họ quay mặt vào lửa, nhưng không ai ngăn cản hoặc hỏi họ muốn săn gì giữa trời đông đầy tuyết và gió lạnh gào thét như vậy. Cô tự hỏi không biết những người già ở Braavos nói với con cái họ những gì trước khi lên đường tới Đền Đen Trắng.

Trăng tròn, khuyết, rồi lại tròn, nhưng Arya chẳng bao giờ được nhìn thấy nó. Cô dọn dẹp, tắm rửa cho người chết, tập làm các khuôn mặt trước gương, học tiếng Braavos, và cố nhớ rằng mình không là

ai cả.

Một hôm, ông già tốt bụng gọi cô tới. “Giọng cháu nghe vẫn rất kinh khủng,” ông nói, “nhưng cháu đã học đủ từ để ít nhất cũng diễn đạt được những gì mình muốn. Đã đến lúc cháu phải rời xa chúng ta một thời gian rồi. Cách duy nhất để cháu nói tốt một ngôn ngữ là sử dụng nó từ sáng đến tối. Cháu phải

đi.”

“Khi nào?” Cô hỏi. “Và đi đâu?”

“Bây giờ,” ông trả lời. “Phía bên kia những bức tường cháu sẽ thấy hàng trăm hòn đảo của Braavos trên biển. Cháu đã được dạy các từ: vẹm xanh, sò và trai chưa nhỉ?”

“Rồi ạ.” Cô nhắc lại chúng bằng thứ tiếng Braavos chuẩn hết sức có thể.

Tiếng Braavos của cô khiến ông mỉm cười. “Sẽ có ích đấy. Dọc theo cầu tàu dưới thị trấn Drowned, cháu sẽ thấy một người bán cá tên là Brusco, một người đàn ông tốt bụng với cái lưng đau. Ông ấy cần một bé gái giúp đẩy xe sò, vẹm xanh, trai và bán chúng cho các thủy thủ khi họ xuống tàu.

Cháu sẽ là bé gái đó. Cháu hiểu không?”

“Vâng.”

“Và khi Brusco hỏi cháu là ai?”

“Không ai cả.”

“Không, cháu không trả lời như vậy được khi ở bên ngoài ngôi đền này.”

Cô ngần ngại. “Cháu có thể là Salty, đến từ Saltpans.”

“Ternesio Terys và các thủy thủ trên thuyền Con Gái Thần Titan biết Salty rồi. Mọi người sẽ nhận ra giọng nói của cháu, vì vậy cháu phải là một cô gái đến từ Westeros... nhưng là một cô gái khác, ta nghĩ vậy.”

Cô cắn môi. “Cháu là Cat được không?”

“Cat.” Ông suy tư. “Được. Braavos có quá nhiều mèo rồi. Thêm một con nữa cũng chẳng ai để ý đâu. Cháu là Cat, một đứa bé mồ côi đến từ...”

“Vương Đô.” Cô đã tới Cảng White với cha hai lần, nhưng cô biết rõ về Vương Đô hơn.

“Ừ, quyết định như vậy. Cha cháu chỉ huy đội chèo thuyền trên một chiếc ga-lê. Khi mẹ cháu mất, ông ấy đưa cháu ra biển cùng. Sau đó ông ấy cũng qua đời, và thuyền trưởng của ông ấy thấy cháu vô

dụng nên đuổi cháu lên bờ ở Braavos. Và tên con thuyền là gì nhỉ?”

“Nymeria,” cô nói ngay lập tức.

Đêm đó, cô rời Đền Đen Trắng. Một con dao sắt dài được cô cài bên hông và che đi bằng chiếc áo choàng, một mảnh vải cũ mòn, vá víu mà lũ trẻ mồ côi vẫn mặc. Giầy của cô bó lấy ngón chân đau điếng, còn chiếc áo dài thì mòn xác xơ đến nỗi gió thổi luồn qua nó một cách dễ dàng. Nhưng Braavos đang nằm trước mắt cô. Không khí ban đêm đầy mùi khói, muối và cá biển. Những con kênh uốn lượn, những ngõ hẻm quanh co. Mọi người nhìn cô với vẻ hiếu kỳ khi cô đi qua, và lũ trẻ ăn xin í ới gọi nhau bằng những từ mà cô không hiểu được. Cô nhanh chóng bị lạc hoàn toàn.

“Ser Gregor,” cô cầu nguyện trong khi băng qua một cây cầu đá bốn nhịp. Từ giữa cầu, cô có thể nhìn thấy cột buồm của các con thuyền trên Cảng Ragman. “Dunsen, Raff Ngọt Ngào, Ser Ilyn, Ser Meryn, thái hậu Cersei.” Mưa bắt đầu rơi. Arya ngửa mặt để nước mưa rơi lên má, trong lòng ngập tràn hạnh phúc vì cô lại được nhảy nhót. “Valar morghulis,” cô nói, “valar morghulis, valar morghulis.”
« Chương Trước