- 🏠 Home
- Phương Tây
- Trinh Thám
- Tiệc Quạ Đen
- Chương 2: Người Truyền Giáo
Tiệc Quạ Đen
Chương 2: Người Truyền Giáo
Người truyền giáo đang làm nghi lễ nhấn nước trên đảo Great Wyk khi có người đến báo tin đức vua đã băng hà.
Đó là một buổi sáng lạnh lẽo và ảm đạm, cả mặt biển và bầu trời đều xám như chì. Ba người đầu tiên đã can đảm dâng mình cho Thần Chết Chìm, nhưng người thứ tư thiếu đức tin và bắt đầu vùng vẫy khi phổi của cậu ta thiếu không khí. Đứng dưới nước biển ngập đến tận thắt lưng, Aeron túm chặt hai vai thằng bé trần như nhộng và ấn đầu nó xuống, trong khi nó cố gắng hớp vội một hơi thở. “Can đảm lên nào,” ông ta động viên thằng nhỏ. “Chúng ta đến từ biển, và sẽ phải quay về với biển. Há miệng ra và uống thật nhiều phước lành của Người. Hãy để cho phổi của con đầy nước, con sẽ chết đi và được tái sinh. Không nên chống lại như thế.”
Hoặc thằng bé không nghe thấy ông nói gì vì đầu đang chìm dưới những con sóng, hoặc đức tin đã hoàn toàn rời bỏ nó. Cậu bé bắt đầu đá lung tung và vùng vẫy điên dại đến mức Aeron phải kêu người trợ giúp. Bốn người theo giáo phái chết chìm vội lội ra, túm lấy thằng bé khốn khổ và dìm nó xuống nước. “Thần Chết Chìm của chúng con,” vị thầy tu cầu nguyện bằng giọng trầm trầm như biển cả, “xin
người hãy nhận Emmond làm kẻ tôi tớ của Người, được tái sinh từ biển như Người. Xin hãy ban phước lành cho cậu bé với muối, đá và thép.”
Cuối cùng mọi việc cũng xong. Không còn bọt khí tuôn ra từ miệng thằng bé, chân tay nó cũng không còn quẫy đạp. Emmond nằm úp mặt xuống biển, trôi dập dềnh trong vùng nước nông, trông tái
nhợt, lạnh lẽo và thanh thản.
Lúc này, Damphair mới nhận ra có ba kỵ sĩ đang đứng cùng nhóm người theo giáo phái chết chìm của ông trên bãi biển đầy sỏi đá. Một trong số đó là Sparr, lão già có khuôn mặt lưỡi cày và đôi mắt lúc nào cũng lèm nhèm nhưng tiếng nói run rẩy của ông ta lại là luật lệ đối với cư dân ở khu vực này của đảo Great Wyk. Đi cùng ông là Steffarion con trai ông và một chàng trai nữa mặc áo choàng lót lông thú màu đỏ sẫm, một chiếc ghim cài đẹp lộng lẫy hình tù và đen và vàng - gia huy của Nhà
Goodbrother - gắn trên vai áo. Đây chắc hẳn là một trong ba con trai của Gorold, Aeron đoán sau khi liếc nhìn qua. Sau mười hai con gái, phu nhân Nhà Goodbrother hạ sinh liền ba cậu con trai cao lớn, nghe nói họ giống nhau đến mức không thể phân biệt được người này với người khác. Aeron không quan tâm chuyện ấy. Cho dù là Greydon, Gormond hay Gran, ông cũng không có thời gian dành cho họ.
Ông làu bàu ra lệnh một cách cục cằn, người của ông túm lấy chân tay thằng bé chết đuối và lôi nó lên bờ, nơi thủy triều không dâng tới được. Aeron đi theo sau trong bộ dạng tя͢ầи ͙ȶя͢υồиɠ, ngoại trừ
mảnh vải bằng da hải cẩu che chỗ kín. Vẫn còn ướt sũng và sởn da gà vì lạnh, ông bì bõm lội lên bờ, băng qua dải cát ướt lạnh và bãi sỏi cuội được sóng biển chà rửa sạch sẽ. Một người của ông tiến lại, đưa cho ông chiếc áo thụng nặng bằng vải thô nhuộm lốm đốm các màu xanh lục, xanh da trời và xám,
màu của biển cả và Thần Chết Chìm. Aeron khoác áo và kéo mớ tóc dài đen sũng nước sau lưng ra ngoài. Mái tóc đen ướt sũng đó chưa bao giờ được cắt kể từ khi Aeron thoát chết trong vụ đắm tàu năm nào. Mớ tóc xõa quanh vai Aeron như một chiếc áo choàng tả tơi và dài tới thắt lưng. Aeron đeo những sợi rong biển dài lẫn trong tóc và trong cả bộ râu rối bù không cạo.
Người của ông đang vây quanh thằng bé chết đuối và cầu nguyện. Norjen xoa bóp tay còn Rus quỳ trên người nó và ấn l*иg ngực, nhưng khi Aeron đến nơi, tất cả đều giãn ra. Ông dùng ngón tay tách
đôi môi lạnh ngắt của thằng bé ra và hà hơi thổi ngạt, liên tục cho đến khi nước biển ộc ra. Thằng nhỏ bắt đầu ho và thở phì phì, rồi hấp háy mở mắt, đôi mắt đầy hoảng sợ.
Thế là thêm một người nữa quay lại, dấu hiệu chứng tỏ ân huệ của Thần Chết Chìm. Các thầy tu khác đều để mất người hết lần này đến lần khác, ngay cả Tarle Ba lần chết đuối - người đã từng được coi là thần thánh đến mức được chọn lên đội vương miện cho nhà vua mới. Nhưng Aeron Greyjoy thì chưa. Ông là Damphair, người đã từng nhìn thấy tòa lâu đài nước của Thần Chết Chìm và tái sinh để kể cho mọi người nghe điều đó. “Sống lại rồi,” ông vỗ lên tấm lưng trần của thằng bé, nó vẫn đang ho sù sụ. “Con đã chết đuối và quay trở lại với chúng ta. Những gì đã chết có thể không bao giờ tàn lụi.”
“Mà sẽ trở lại.” Thằng bé ho dữ dội và tiếp tục phun ra thêm nước. “Tái sinh.” Mỗi từ nói ra được đánh đổi bằng sự đau đớn, nhưng đó là con đường phải đi của cả thế giới này: chiến đấu để sinh tồn.
“Tái sinh.” Emmond loạng choạng đứng lên. “Cứng rắn hơn. Và mạnh mẽ hơn.”
“Giờ đây con đã thuộc về Thần Chết Chìm.” Aeron nói với cậu bé. Những người theo giáo phái chết chìm khác vây quanh, vừa đấm vừa hôn để mừng người anh em mới của họ. Một người giúp cậu mặc chiếc áo choàng bằng vải thô lốm đốm xanh lơ, xanh lục và xám. Người khác chìa cho cậu một chiếc dùi cui bằng gỗ dạt. “Giờ đây con đã thuộc về biển, biển sẽ vũ trang cho con,” Aeron tiếp tục. “Chúng ta cầu cho con sử dụng cây gậy này một cách mạnh mẽ, để giúp vị thần của chúng ta chống lại
mọi kẻ thù.”
Đến lúc này, ông mới quay về phía ba kỵ sĩ đang ngồi trên yên ngựa yên lặng quan sát. “Có phải các ngài đến đây để được nhấn chìm vào lòng biển không, thưa các lãnh chúa?”
Lãnh chúa Sparr húng hắng ho. “Tôi đã được nhấn nước từ khi còn là một đứa bé, con trai tôi cũng vậy trong ngày đặt tên của nó.”
Aeron khịt mũi coi thường. Chuyện Steffarion Sparr được trao cho Thần Chết Chìm ngay sau khi sinh ra không có gì đáng nghi ngờ. Ông hiểu quá rõ nghi thức đó, đứa trẻ mới sinh được nhúng vào một
chậu nước biển, nhanh đến nỗi hiếm khi kịp ướt đầu. Do đó, không có gì lạ khi cư dân của Quần đảo Iron - những con người từng thống trị bất cứ nơi nào có tiếng sóng biển - đã bị chinh phục. “Đấy không phải là nhấn nước thực sự,” ông đáp. “Người không thực sự chết không thể hy vọng tái sinh từ cái chết. Các ngài đến đây làm gì nếu không phải để chứng minh đức tin của mình?”
“Con trai Lãnh chúa Gorold đến tìm ông để báo tin.” Ngài Sparr chỉ vào chàng trai mặc áo choàng đỏ.
Trông cậu không quá 16 tuổi. “Chà, cậu là thứ mấy?”
“Tôi là Gormond. Gormond Goodbrother, nếu điều đó làm ông hài lòng.”
“Chúng ta chỉ cần làm hài lòng Thần Chết Chìm. Cậu đã được nhấn nước chưa, cậu Gormond Goodbother?”
“Rồi, vào ngày lễ đặt tên của tôi, Damphair. Cha tôi cử tôi đến tìm ông và đưa ông về gặp ông ấy. Ông ấy cần nói chuyện với ông.”
“Ta không đi đâu cả. Hãy để Lãnh chúa Gorold đến và tự mình gặp ta.” Aeron cầm lấy chiếc túi da vừa được múc đầy nước biển từ tay Rus, rút cái nút bần và uống một ngụm.
“Tôi sẽ đưa ông về pháo đài,” chàng Gormond trẻ tuổi vẫn khăng khăng từ trên lưng ngựa.
Cậu ta không muốn xuống vì sợ làm ướt đôi ủng. “Ta còn nhiều việc phải làm để phụng sự Thần Chết Chìm.” Aeron Greyjoy là người truyền giáo của thần linh. Đời nào ông chịu để những vị lãnh
chúa tầm thường ra lệnh như một kẻ tôi tớ.
“Gorold nhận được tin từ một con quạ,” lãnh chúa Sparr nói.
“Con quạ của một học sĩ đến từ Pyke,” Gormond xác nhận.
Đôi cánh chim đen mang điềm u ám. “Lũ quạ bay qua núi cao biển rộng. Nếu có tin gì liên quan đến ta, xin hãy nói luôn.”
“Tin tức chúng ta mang đến chỉ dành riêng cho ngài, Damphair.” Lãnh chúa Sparr đáp. “Đây không phải vấn đề có thể tùy tiện nói trước những người này.”
“Họ là người của ta, đều là tôi tớ của Thần Chết Chìm, cũng như ta. Ta không có bí mật nào cần giấu họ hay giấu Thần Chết Chìm khi đứng bên biển cả thần thánh.”
Ba vị khách liếc nhìn nhau. “Nói cho ông ta biết đi,” Lãnh chúa Sparr phá vỡ sự im lặng và chàng trai mặc áo choàng đỏ thu hết can đảm. “Đức vua băng hà,” cậu nói sự thật một cách đơn giản. Chỉ có
bốn từ, nhưng dường như biển cả cũng run lên khi những từ đó được thốt ra.
Hiện nay có tới bốn vị vua đang trị vì Westeros, nhưng Aeron không cần hỏi cũng biết họ đang nói đến ai. Còn ai vào đây nữa ngoài anh trai ông, Balon Greyjoy, người trị vì Quần đảo Iron. Đức vua băng hà. Lẽ nào lại thế? Ông vừa mới gặp Balon chưa đầy một tháng trước sau khi cướp bóc dọc bờ biển Stony và trên đường quay về. Ông còn nhớ, khi chia tay, mái tóc hoa râm của anh trai ông đã bạc trắng một nửa, dáng người còng đi khi chiếc thuyền dài nhổ neo. Nhưng nhìn chung không có vẻ gì là
đau ốm.
Cuộc đời Aeron Greyjoy dựa vào hai trụ cột hùng mạnh. Nhưng chỉ cần bốn từ đơn giản đó đã bẻ gẫy một trong hai. Giờ chỉ còn lại Thần Chết Chìm thiêng liêng. Xin Người hãy ban cho con sức mạnh
và sinh lực như biển cả. “Nói ta nghe ông ấy đã chết như thế nào.”
“Nhà vua đang đi qua một cây cầu ở Pyke thì bị ngã và rơi xuống rặng đá bên dưới.”
Thành lũy của Nhà Greyjoy được xây dựng trên một mũi đất nhô ra biển, các pháo đài và tháp canh nằm cheo leo trên những mỏm đá lớn dựng đứng. Các phần của lâu đài được nối với nhau bằng
những cây cầu, những vòm cuốn cong cong đẽo bằng đá tảng, những nhịp cầu bằng chão và gỗ ván đung đưa. “Khi đó có phải đang bão không?” Aeron hỏi.
“Vâng, đúng vậy.” Chàng trai xác nhận.
“Thần Bão Tố đã quật ngã ông ấy,” ông tuyên bố. Hàng triệu năm trước đây, biển cả và bầu trời đã từng xung đột. Những con dân của Quần đảo Iron sinh ra từ biển cả, cá là nguồn sống của họ ngay cả trong mùa đông rét buốt, còn bão tố chỉ đem đến tai ương và khổ đau. “Balon anh trai ta một lần nữa đã khiến chúng ta lớn mạnh hơn, điều đó khuấy động sự tức giận của Thần Bão Tố. Giờ này chắc chắn
nhà vua đang được tiếp đón nồng nhiệt trong lâu đài nước của Thần Chết Chìm, các nàng tiên cá sẽ phục vụ mọi mong muốn của ông ấy. Chỉ còn lại chúng ta nơi khô cằn, buồn thảm này để hoàn thành nốt những việc vĩ đại mà ông ấy đang dang dở.” Ông đóng cái nút bần vào miệng túi. “Ta sẽ phải nói chuyện với cha cậu. Từ đây đến Hammerhorn bao xa?”
“Mười tám dặm. Ngài có thể cưỡi ngựa cùng tôi.”
“Một người cưỡi ngựa sẽ đi nhanh hơn hai người. Cho ta mượn con ngựa nào, Thần Chết Chìm sẽ phù hộ cho cậu.”
“Damphair, ngài lấy ngựa của tôi mà dùng.” Steffarion Sparr đề nghị.
“Không. Ngựa của cậu ta khỏe hơn. Phải là ngựa của cậu cơ, chàng trai.”
Chàng thanh niên ngần ngại trong giây lát nhưng sau đó cũng xuống ngựa và giữ dây cương cho Damphair. Aeron đặt bàn chân trần đen nhẻm vào bàn đạp và đu người lên yên. Ông không thích ngựa
- chúng là tạo vật của đất liền, chúng góp phần khiến con người yếu đuối đi - nhưng hoàn cảnh bắt buộc ông phải cưỡi. Đôi cánh chim đen mang điềm đen tối. Một cơn bão sắp đến, ông nghe thấy âm
thanh của nó trong từng con sóng, bão tố chẳng đem đến điều gì khác ngoài tai ương. “Hãy đến gặp ta
ở Pebbleton, dưới chân tháp của Lãnh chúa Merlyn,” ông dặn dò người của mình trong khi cho ngựa
quay đầu.
Con đường mòn gập ghềnh, lên đèo xuống dốc, xuyên qua những cánh rừng, những hẻm núi, đôi lúc hẹp lại tưởng chừng biến mất dưới vó ngựa. Great Wyk là hòn đảo lớn nhất trong Quần đảo Iron, lớn đến mức đất đai của một số lãnh chúa không tiếp giáp với biển. Gorold Goodbrother là một trong số đó. Lâu đài của ông ta nằm trên đỉnh đồi Hardstone, cách xa lãnh địa của Thần Chết Chìm cũng như nhiều nơi khác trên đảo này. Dân trong vùng lao động cực nhọc trong bóng tối, dưới những hầm mỏ nằm sâu trong lòng đất. Nhiều người cho đến khi chết vẫn chưa một lần được tận mắt nhìn thấy biển.
Do đó, chẳng có gì ngạc nhiên khi tính khí họ khó chịu và cáu bẳn.
Ngồi trên lưng ngựa, suy nghĩ của Aeron lại quay về những người anh em của mình.
Ngài Quellon Greyjoy, lãnh chúa của Quần đảo Iron có cả thảy chín con trai. Harlon, Quenton và Donel là con của người vợ đầu tiên - một phụ nữ thuộc dòng họ Stonetrees. Balon, Euron, Victarion, Urrigon và Aeron là con người vợ thứ hai, vốn là người Nhà Sunderly ở Saltcliffe. Người vợ thứ ba của Quellon - người con gái đến từ đất liền - hạ sinh Robin, một thằng bé ngu ngốc và ốm yếu mà
Aeron nghĩ tốt nhất là nên quên đi. Ông cũng chẳng còn chút ký ức nào về Quenton hay Donel vì họ đã chết khi còn nhỏ. Harlon thì ông chỉ còn nhớ lờ mờ, với khuôn mặt xám ngoét, nằm bất động trong một căn phòng không cửa sổ trong tháp lâu đài, giọng nói mỗi lúc một thều thào hơn khi căn bệnh vảy xám dần biến lưỡi và môi anh ta thành đá. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ lại cùng nhau chè chén trong lâu đài nước của Thần Chết Chìm, cả bốn chúng ta và Urri nữa, Aeron thầm nghĩ.
Lãnh chúa Quellon Greyjoy có chín con trai, nhưng chỉ bốn người sống được đến lúc trưởng thành. Đời là vậy, đàn ông ra khơi đánh cá, đào đất và rồi chết đi, đàn bà hạ sinh những đứa trẻ đoản mệnh
trên những chiếc giường đầy máu me và đau đớn. Aeron là đứa con nhỏ nhất và cũng kém cỏi nhất trong bốn “con thủy quái” còn sống đó. Balon - anh cả và cũng là người dũng mãnh nhất - là một cậu bé can đảm và táo tợn; khôi phục vinh quang cổ xưa của Quần đảo Iron dường như là mục đích sống duy nhất của anh trai ông. Lên 10, cậu trèo lên được tháp canh bị ma ám của Lãnh chúa Mù nằm cheo leo trên Vách Đá Lửa. 13 tuổi, cậu đã điều khiển được mái chèo của chiếc tàu lớn và chơi trò ném rìu
xuất sắc như một người đàn ông trưởng thành. 15 tuổi, cậu đã cùng thuyền trưởng Dagmer Hàm Ếch dong buồm tới tận Stepstones và cướp bóc ở đó suốt một mùa hè. Ở đó, lần đầu tiên cậu gϊếŧ người, và cũng ở đó, cậu có được hai người vợ đầu tiên. Ở tuổi 17, Balon được chỉ huy con thuyền của chính mình. Anh ấy là hình mẫu hoàn hảo của một người anh cả, mặc dù anh ấy đối với Aeron chỉ có sự khinh miệt. Nhưng ta yếu đuối và đầy tội lỗi, nên khinh miệt là quá xứng đáng. Thà được Balon Dũng Cảm khinh thường còn hơn được Euron Mắt Quạ yêu mến. Tuổi tác và sự phiền muộn quả có làm cho tính khí Balon chua cay hơn, nhưng cũng làm anh ấy quyết đoán hơn bất kỳ người đàn ông nào. Anh ấy sinh ra là con trai một lãnh chúa và qua đời với tư cách là một vị vua, chết do sự đố kỵ của thần linh. Giờ đây, cơn bão ấy đang đến, cơn bão mà quần đảo này chưa bao giờ phải đương đầu.
Khi Aeron nhìn thấy bức tường thành bằng sắt sắc nhọn đầy lỗ châu mai của Hammerhorn nhô lên lởm chởm dưới vầng trăng lưỡi liềm thì đã là đêm muộn. Thành lũy của Gorold trông nặng nề và đồ sộ, được dựng bằng những tảng đá khổng lồ xẻ ra từ vách đá sau lưng. Dưới tường thành, cửa hang và lối vào những hầm mỏ cổ xưa ngoác ra như những cái miệng không răng đen ngòm. Vì đã là đêm nên cổng thành bằng sắt của Hammerhorn đóng chặt. Aeron đập cổng bằng một hòn đá cho đến khi tiếng
kêu vang rền của nó đánh thức một tên lính gác. Chàng trai trẻ đưa ông vào là một bản sao của Gormond, người đã đưa ngựa cho ông. “Cậu là thứ mấy?” Aeron hỏi.
“Tôi là Gran. Cha tôi đang đợi ngài trong kia.”
Sảnh lớn của lâu đài lạnh lẽo, ẩm ướt và tối tăm. Một trong các con gái của Gorold đưa cho vị thầy tu một cốc sừng đựng đầy bia, một người khác đang cời ngọn lửa âm ỉ tỏa nhiều khói hơn là hơi ấm đang leo lét cháy trong lò. Lãnh chúa Gorold Goodbrother đang trò chuyện khe khẽ với một người đàn ông mảnh khảnh mặc áo choàng xám sang trọng. Quanh cổ người đàn ông đó là một chuỗi xích làm
bằng nhiều thứ kim loại khác nhau, cho thấy ông ta là một học sĩ của Citadel.
“Gormond đâu?” Gorold hỏi khi trông thấy Aeron.
“Cậu ấy sẽ đi bộ về. Lãnh chúa hãy cho đám phụ nữ lui ra. Cả vị học sĩ này nữa.” Ông chẳng yêu thích gì các học sĩ. Bầy quạ của họ là sứ giả của Thần Bão Tố, ông không tin tưởng cách chữa bệnh của họ, kể từ cái chết của Urri. Không một người đàn ông chân chính nào chọn cuộc sống của kẻ tôi
đòi với một chuỗi xích biểu hiện sự quy phục đeo quanh cổ.
“Gysella, Gwin, đi ra,” Lãnh chúa Goodbrother nói cộc lốc. “Con cũng thế, Grand Maester Murenmure ở lại.”
“Ông ấy cũng phải ra.” Aeron khăng khăng yêu cầu.
“Đây là nhà tôi, Damphair. Đây không phải nơi cho ông ra lệnh ai đi ai ở. Ngài học sĩ sẽ ở lại.”
Người đàn ông này sống quá xa biển cả, Aeron tự nhủ. “Vậy thì tôi sẽ đi,” ông nói với Lãnh chúa Goodbrother. Cói khô loạt xoạt dưới gót chân trần nứt nẻ của Aeron khi ông quay người và kiêu hãnh
đi ra. Có vẻ ông đi một quãng đường dài tới đây vô ích.
Aeron ra gần đến cửa thì vị học sĩ hắng giọng và nói, “Euron Mắt Quạ định ngồi lên Ngai Đá Biển.”
Damphair quay lại. Cả đại sảnh đột nhiên trở nên lạnh lẽo hơn. Mắt Quạ cách xa cả nửa vòng thế giới cơ mà. Hai năm trước đây, Balon đã đuổi hắn đi và thề rằng nếu hắn quay về, anh ấy sẽ lấy mạng
hắn. “Nói đi,” giọng ông khàn khàn.
“Ông ta đã dong buồm cập bến Lordsport ngay sau hôm đức vua băng hà rồi tuyên bố lâu đài và vương miện phải thuộc về ông ta, vì ông là em trai lớn nhất của đức vua,” Lãnh chúa Gorold
Goodbrother trả lời. “Hiện giờ ông ta cho quạ truyền tin đến các thuyền trưởng và tiểu vương trên mọi hòn đảo, triệu tập họ đến Pyke để quỳ gối thần phục và tôn ông ta làm vua.”
“Không được,” Aeron nói mà không cân nhắc. “Chỉ những người sùng đạo mới có thể ngồi lên Ngai Đá Biển, mà Mắt Quạ chẳng sùng bái cái gì ngoài niềm kiêu hãnh của bản thân.”
“Ngài vừa gặp nhà vua ở Pyke cách đây không lâu,” Lãnh chúa Goodbrother hỏi. “Nhà vua có nói với ngài điều gì về việc chọn người kế vị không?”
Đúng. Đúng là họ đã đàm luận điều đó trên Tháp Biển trong khi gió gào thét ngoài cửa sổ và sóng không ngừng ầm ầm đập vào vách đá bên dưới. Anh trai ông lắc đầu tuyệt vọng khi nghe những gì ông nói về đứa con trai duy nhất còn sống của mình. “Lũ sói đó làm nó yếu đuối đi, đúng như những gì ta
lo sợ. Ta đã cầu xin thần linh run rủi cho bọn chúng gϊếŧ nó đi, để nó không thể ngáng đường Asha.” Anh ấy nhìn thấy hình ảnh của chính mình trong cô con gái hoang dã và bướng bỉnh, và mù quáng tin rằng con bé có thể kế vị mình. Anh ấy sai rồi, Aeron cố gắng nói cho anh trai mình biết điều đó. “Chưa bao giờ phụ nữ trị vì quần đảo này, kể cả người phụ nữ như Asha chăng nữa.” Nhưng Balon trở nên điếc đặc trước những điều ông không muốn nghe.
Trước khi vị thầy tu kịp trả lời Lãnh chúa Goodbrother, ngài học sĩ tiếp tục lên tiếng. “Đúng ra Ngai Đá Biển phải thuộc về hoàng tử Theon, và nếu hoàng tử chết thì thuộc về công chúa Asha. Đó là
luật rồi.”
“Luật của đất liền thôi,” Aeron nói một cách khinh miệt. “Luật của chúng ta là gì? Chúng ta là “người sắt”, là con trai của biển cả, do Thần Chết Chìm lựa chọn. Không một phụ nữ nào cai trị được
chúng ta, kể cả đàn ông vô thần cũng vậy.”
“Thế còn Victorion?” Gorold Goodbrother hỏi. “Ông ấy chỉ huy Hạm đội Sắt. Liệu ông ấy có đòi ngai báu hay không, ngài Damphair?”
“Nhưng Euron lớn hơn...” Vị học sĩ lại bắt đầu.
Nhưng cái liếc nhìn của Aeron khiến ông ta im bặt. Dù ở những làng chài nhỏ hay trong các tòa tháp bằng đá vĩ đại của lâu đài, một cái nhìn như vậy của Damphair có thể làm cho những cô gái trẻ ngất xỉu và lũ trẻ con khóc thét, nó thừa đủ để trấn áp gã nô bộc đeo xích. “Euron lớn hơn,” Aeron
đáp, “nhưng Victorion ngoan đạo hơn.”
“Liệu có xảy ra chiến tranh giữa họ không?” Học sĩ hỏi.
“Người sắt không được làm người sắt đổ máu.”
“Quan điểm đúng đắn đấy ông Damphair,” Lãnh chúa Goodbrother xen vào. “Nhưng anh trai ông không cùng suy nghĩ với ông đâu. Ông ta đã dìm chết Sawane Botley chỉ vì dám nói Ngai Đá Biển
đúng ra phải thuộc về Theon.”
“Nếu ông ta cũng bị dìm chết thì sẽ không có đổ máu.” Aeron trả lời.
Ngài học sĩ và vị lãnh chúa liếc nhìn nhau. “Tôi phải chuyển thông điệp đến Pyke càng sớm càng tốt,” Lãnh chúa Gorold nói. “Damphair, tôi muốn biết ý kiến của ông, ông thần phục hay không thần
phục?”
Aeron vuốt chòm râu và suy ngẫm. Giờ thì ta đã thấy cơn bão rồi, tên nó là Euron Mắt Quạ. “Hiện giờ, chúng ta nên im lặng,” ông nói với vị lãnh chúa. “Tôi phải cầu nguyện về việc này đã.”
“Hãy cứ cầu nguyện tất cả những gì ông muốn,” vị học sĩ phản ứng. “Nhưng nó cũng chẳng thể thay đổi được luật lệ, Theon là người thừa kế hợp pháp, sau đó là Asha.”
“Câm mồm!” Aeron gầm lên. “Người sắt đã phải nghe các học sĩ đeo xích huyên thuyên quá nhiều về đất liền và luật lệ của đất liền rồi. Đã đến lúc phải quay về với biển. Đã đến lúc chúng ta phải lắng nghe lời nói của thần linh.” Giọng ông vang lên sang sảng trong đại sảnh đầy khói, nghe uy lực đến nỗi khiến cả Lãnh chúa Goodbrother và vị học sĩ đều im thin thít. Thần Chết Chìm sẽ phù hộ cho ta, Aeron nghĩ. Người sẽ chỉ cho ta con đường phải đi.
Lãnh chúa Goodbrother có nhã ý mời Aeron nghỉ lại một đêm trong lâu đài tiện nghi nhưng vị thầy tu khước từ. Ông hiếm khi ngủ trong một lâu đài và không bao giờ ngủ xa biển đến vậy. “Ta sẽ hưởng những tiện nghi trong lâu đài nước nằm sâu dưới những con sóng của Thần Chết Chìm. Chúng ta sinh ra là để chịu đựng. Nỗi khổ khiến chúng ta mạnh mẽ hơn. Tất cả những gì ta cần bây giờ là một con
ngựa khỏe để đưa ta trở về Pebbleton.”
Vị lãnh chúa sẵn lòng cấp ngựa ngay. Ông còn cử cậu con trai thứ ba, Greydon, đi theo để chỉ cho tu sĩ con đường ngắn nhất xuyên qua vùng đồi núi gập ghềnh và xuôi về phía biển. Khi họ ra đi vẫn còn khoảng một giờ nữa mới tới bình minh, nhưng ngựa của họ là loại ngựa dày dạn và khỏe mạnh,
nhờ đó chuyến đi trở nên thật dễ dàng dù trời còn tối. Aeron nhắm mắt lại và thầm cầu nguyện, sau đó bắt đầu ngủ lơ mơ trên yên ngựa.
Âm thanh đó xuất hiện rất nhẹ nhàng, đó là tiếng rít của một cái bản lề han gỉ. “Anh Urri,” Aeron lẩm bẩm rồi hốt hoảng choàng tỉnh. Chẳng có bản lề hay cánh cửa nào hết, và cũng chẳng có Urri. Khi
anh ấy mới 14 tuổi, lúc cha và các anh trai xa nhà chinh chiến, trong khi chơi trò ném rìu, chiếc rìu bay đến đã xén ngọt nửa bàn tay của Urri. Phu nhân thứ ba của Lãnh chúa Quellon từng mang họ Piper và đến từ lâu đài Pinkmaiden; một cô gái có bộ ngực lớn mềm mại và đôi mắt nai dịu dàng. Thay vì chữa trị cho Urri theo cách cổ xưa với lửa và nước biển, cô ta lại trao anh ấy cho một học sĩ của đất liền, kẻ thề rằng có thể khâu những ngón tay lại cho Urri. Ông ta đã làm như thế, sau đó sử dụng các loại thuốc nước, thuốc đắp và thảo dược, nhưng bàn tay bị hoại tử và Urri lên cơn sốt. Khi lão học sĩ cưa bỏ tay anh thì tất cả đã quá muộn.
Lãnh chúa Quellon không bao giờ trở về từ chuyến đi đó; Thần Chết Chìm đã ban cho ông cái chết ngoài biển khơi. Chỉ có Lãnh chúa Balon trở về cùng với hai em trai Euron và Victarion. Khi biết
chuyện của Urri, Balon đã cho chặt ba ngón tay của vị học sĩ bằng dao phay nhà bếp và yêu cầu bà mẹ kế của mình khâu chúng lại. Thuốc nước và thuốc đắp cũng có tác dụng với lão học sĩ hệt như với Urri. Ông ta chết trong cơn cuồng dại, và vợ ba của Lãnh chúa Quellon không bao lâu sau cũng đi theo
ông ta trong cơn trở dạ khi bà đỡ lôi trong bụng cô ta ra một bé gái chết non. Aeron cảm thấy vui mừng. Chính lưỡi rìu của ông đã chặt nửa bàn tay Urri khi họ đang chơi trò ném rìu như những người bạn và các anh em vẫn thường chơi.
Cho đến giờ, Aeron vẫn cảm thấy hổ thẹn khi hồi tưởng lại quãng thời gian sau cái chết của Urri.
Ở tuổi 16, ông tự cho mình là một người đàn ông, nhưng thực ra, ông chỉ là một cái túi đựng rượu có chân, không hơn không kém. Ông đã ca hát, nhảy múa (nhưng không bao giờ còn chơi trò ném rìu nữa), cười đùa, tán dóc hoặc chế giễu người khác. Ông thổi sáo, tung hứng, cưỡi ngựa và có thể uống rượu
nhiều hơn toàn bộ Nhà Wynch, Nhà Botley và phân nửa Nhà Harlaw cộng lại. Người đàn ông nào cũng được Thần Chết Chìm ban tặng một món quà, thậm chí cả ông cũng vậy; không ai có thể tiểu tiện lâu hơn và xa hơn Aeron Greyjoy, điều này đã được chứng minh sau mỗi lần chè chén. Một lần, Aeron đã đem chiếc thuyền dài mới toanh của mình ra cược để đổi lấy một đàn dê nếu ông có thể dập tắt ngọn lửa trong lò sưởi chỉ bằng cách tiểu vào đó. Kết quả là Aeron chén thịt dê cả năm và đặt tên cho
con thuyền mới là Cơn Bão Vàng, mặc dù Balon đe dọa sẽ treo ông lên cột buồm khi biết được kiểu mũi nhọn mà ông em trai định trang bị cho mũi thuyền.
Cuối cùng, Cơn Bão Vàng bị chìm ngoài khơi đảo Fair trong cuộc nổi loạn lần thứ nhất của Balon. Nó bị một chiếc tàu chiến khổng lồ mang tên Thịnh Nộ xẻ làm đôi khi Stannis Baratheon giăng bẫy bắt
được Victarion và phá tan tành Hạm đội Sắt. Nhưng thần linh vẫn còn chưa chấp nhận Aeron, ông được ném lên bờ. Những người dân chài đã bắt ông, xích lại và giải đến Lannisport. Ông đã trải qua thời gian còn lại của cuộc chiến trong pháo đài Casterly Rock và chứng minh rằng thủy quái kraken có thể tiểu tiện dài hơn, xa hơn cả sư tử, lợn rừng và cả gà nữa.
Giờ đây, người đàn ông đó đã chết. Aeron đã chết chìm và tái sinh từ biển, trở thành người truyền giáo của thần linh. Không một kẻ tử thù nào có thể làm ông sợ, kể cả bóng tối và ký ức - cốt lõi của linh hồn. Tiếng mở một cánh cửa, tiếng rít của bản lề sắt han gỉ. Euron đã quay về. Không hề gì. Giờ
ông là tu sĩ Damphair, người được thần linh yêu quý.
“Liệu có xảy ra chiến tranh không?” Greydon Goodbrother hỏi khi mặt trời chiếu sáng vùng đồi núi trước mắt. “Một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn ấy?”
“Nếu thần linh muốn vậy. Không một kẻ vô thần nào có thể ngồi lên Ngai Đá Biển.” Hiển nhiên là Mắt Quạ sẽ chống trả. Không một phụ nữ nào có thể đánh bại anh ấy, cho dù đó là Asha chăng nữa; phụ nữ được sinh ra là để chiến đấu trên giường sinh nở. Và Theon, nếu còn sống, cũng chẳng có một tia hy vọng, nó chỉ là một thằng bé hờn dỗi và hay cười. Ở Winterfell, thật tình mà nói, nó đã chứng minh được giá trị của mình, nhưng Mắt Quạ đâu phải là một kẻ què quặt. Boong tàu của hắn được sơn màu đỏ để giấu đi màu máu sũng trên đó. À, còn Victarion. Vua của Quần đảo Iron phải là Victarion,
nếu không cơn bão sẽ gϊếŧ tất cả chúng ta.
***
Khi mặt trời lên, Graydon tạ từ vị thầy tu, cậu còn phải mang tin đức vua băng hà tới những người anh em ở Downdelving, pháo đài Crow Spike và hồ Corpse. Aeron tiếp tục đi một mình, lên đồi
xuống dốc theo con đường mòn toàn đá đang trở nên rộng dần và nhiều người đi hơn khi ra gần biển. Tới mỗi làng hay mỗi lâu đài của những lãnh chúa nhỏ, Aeron đều dừng lại để thuyết giáo. “Tất cả chúng ta đều sinh ra từ biển, và sẽ lại quay về với biển,” giọng ông trầm trầm như biển và vang to như sóng. “Trong cơn đố kỵ, Thần Bão Tố đã giật đức vua ra khỏi lâu đài và quật ngã ngài, giờ đây ngài đang yến tiệc trong lâu đài nước nằm dưới những con sóng của Thần Chết Chìm.” Ông giơ cao hai tay. “Balon đã chết! Đức vua của chúng ta đã chết! Rồi một đức vua mới sẽ xuất hiện! Vì những gì đã chết có thể không bao giờ tàn lụi, mà sẽ tái sinh, cứng rắn và mạnh mẽ hơn! Một vị vua mới sẽ xuất hiện!”
Một số người sau khi nghe Aeron nói liền quẳng cày cuốc đi theo ông, vì thế đến khi nghe thấy tiếng sóng biển rì rào thì sau lưng ông đã có khoảng hơn một chục người đi theo đuôi ngựa, được thần
linh cảm hóa và khao khát được nhấn nước.
Pebbleton là ngôi nhà của vài ngàn ngư dân, những túp lều lụp xụp của họ đứng lộn xộn quanh chân một tòa lâu đài vuông, cao và kiên cố, mỗi góc có một tháp canh nhỏ. Khoảng bốn mươi người đàn ông thuộc giáo phái chết chìm đang đợi Aeron ở đây. Họ dựng lều bằng da hải cẩu hoặc lán bằng gỗ trôi để trú tạm trên bãi biển cát xám. Những bàn tay thô ráp vì nước biển, sứt sẹo vì kéo lưới và chão, chai sần vì mái chèo, cuốc và rìu, nhưng giờ đây những bàn tay ấy cứng như thép ghì chặt những súc gỗ họ vớt được dưới biển, thần linh đã ban chúng cho họ từ kho vũ khí của Người dưới biển khơi.
Họ dựng một cái lán ngay phía trên đường thủy triều cho vị thầy tu. Aeron vui mừng bò vào trong lán sau khi đã nhấn nước những tín đồ mới nhất. Cầu xin Người, ông cầu nguyện, hãy nói chuyện với con bằng tiếng sóng biển, và cho con biết con phải làm gì bây giờ. Các thuyền trưởng và tiểu vương đang chờ đợi lời nói của Người. Ai sẽ thay Balon làm vua? Thông qua tiếng hát của thủy quái, hãy cho con biết tên của người xứng đáng? Hỡi Chúa tể của biển khơi, hãy nói cho con biết ai là người có đủ
sức mạnh để chống lại cơn bão ở Pyke?
Mặc dù chuyến đi đến Hammerhorn làm Aeron mệt lử, ông vẫn không nghỉ ngơi trong căn lều nhỏ làm bằng gỗ trôi, mái lợp rong đen vớt lên từ biển. Mây đen kéo đến che kín trăng sao, mặt biển tối
đen như bóng tối trong tâm hồn ông. Balon sủng ái Asha, đứa con ruột của anh ấy, nhưng phụ nữ không thể trị vì. Phải là Victarion. Trong chín đứa con trai của Quellon Greyjoy, Victarion là người khỏe mạnh nhất. Anh ấy là một con bò đực trong đám đàn ông, một người can đảm và tận tụy. Nhưng ở đây có một nguy cơ. Em trai có nghĩa vụ phục tùng các anh, mà Victarion lại không phải kiểu người đi ngược với truyền thống. Tuy vậy, anh ấy không yêu quý Euron. Đặc biệt kể từ khi người phụ nữ ấy qua đời.
Bên ngoài, ngoài tiếng ngáy của đám tín đồ và tiếng khóc than của gió, ông còn nghe thấy tiếng đập ầm ầm của sóng, đó là tiếng búa của thần linh thúc giục ông vào trận chiến. Aeron bò ra khỏi lán và bước vào đêm đen lạnh giá. Ông đứng đó tя͢ầи ͙ȶя͢υồиɠ, tái nhợt, cao và gầy hốc hác; rồi cứ thế ông đi xuống biển đêm đen kịt. Nước lạnh buốt như băng, nhưng ông không nao núng trước những cái ôm giá lạnh của thần linh. Một con sóng đập mạnh vào ngực làm ông lảo đảo. Con sóng thứ hai trùm qua đầu.
Ông có thể nếm được vị muối trên môi và cảm thấy Thần Chết Chìm đang ở quanh ông, tai ông âm vang bài hát của Người. Trong chín đứa con của Quellon Greyjoy, ta là đứa kém cỏi nhất, yếu đuối và sợ hãi như đàn bà. Nhưng điều đó không còn đúng nữa. Gã đàn ông đó đã chết, và thần linh đã tiếp thêm cho ta sức mạnh. Nước biển lạnh và mặn bao quanh ông, ôm lấy ông, xuyên qua da thịt yếu đuối và thấu tới tận xương. Đúng rồi, xương, ông nghĩ. Xương của linh hồn. Xương của Balon và của Urri nữa. Chân lý nằm trong xương cốt chúng ta. Da thịt sẽ thối rữa, chỉ có xương là còn lại. Và trên đỉnh đồi Nagga là những dẻ xương làm nên lâu đài của Vua Xám...
Aeron quay vào bờ, gầy gò, tái nhợt và run lẩy bẩy. Khi bước vào lòng biển, người ta sẽ trở nên thông thái hơn. Aeron đã tìm ra câu trả lời từ trong xương tủy chính mình và con đường phía trước bỗng trở nên bằng phẳng. Đêm nay lạnh đến mức thân thể ông dường như tỏa hơi khi ông quay về lán,
nhưng trong tim ông, một ngọn lửa đang cháy. Ông bước vào giấc ngủ một cách dễ dàng, không còn bị ngắt quãng bởi tiếng cót két của chiếc bản lề sắt.
Khi ông tỉnh dậy thì trời đã sáng. Đó là một ngày sáng sủa và đầy gió. Aeron ăn sáng bằng món canh trai nấu với rong biển bằng củi rều. Khi ông vừa xong bữa sáng cũng là lúc Merlyn cùng với sáu
vệ sĩ rời dinh thự của mình xuống tận nơi tìm Aeron. “Đức vua đã băng hà,” Aeron nói với ông ta.
“Ừ, tôi đã nhận được tin báo từ một con quạ, hôm nay lại thêm một con nữa.” Merlyn là một gã hói béo tốt. Ông ta ăn mặc đúng theo kiểu một “lãnh chúa” của đất liền với toàn lông và nhung. “Một con quạ triệu tập tôi đến Pyke, con kia đòi đến lâu đài Mười Ngọn Tháp. Những con thủy quái của các
ông có quá nhiều tua, các ông định bắt tôi phân thân chắc. Ông nói đi, thầy tu. Tôi phải đưa đoàn thuyền của mình đến đâu đây?”
Aeron quắc mắt. “Ông nói Mười Ngọn Tháp à? Con thủy quái nào gọi ông đến đấy?” Mười Ngọn Tháp là lãnh địa của Nhà Harlaw.
“Công chúa Asha. Cô ấy tập hợp thuyền để trở về nhà. Mọt Sách đã gửi quạ đi để triệu tập tất cả bằng hữu của công chúa tới Harlaw. Ông ấy nói Balon muốn Asha kế thừa Ngai Đá Biển.”
“Thần Chết Chìm sẽ quyết định ai là người có được Ngai Đá Biển,” vị thầy tu trả lời. “Hãy quỳ xuống, ta sẽ ban phước cho ông.” Lãnh chúa Merlyn quỳ gối xuống, và Aeron mở nút chiếc bầu da, rót một dòng nước biển xuống cái đầu nhẵn bóng của ông ta. “Thần linh thiêng liêng, Người đã nhấn nước
chúng con, xin Người hãy để Meldred, kẻ tôi tớ của Người, được tái sinh từ biển. Xin hãy ban cho ông ấy nhiều muối, đá và thép.” Nước chảy dọc theo hai má ngấn mỡ của Merlyn, thấm đẫm bộ râu và chiếc áo khoác bằng lông cáo của ông ta. “Những gì đã chết không bao giờ lụi tàn,” Aeron kết thúc lời cầu nguyện, “mà sẽ tái sinh, cứng rắn và mạnh mẽ hơn.” Nhưng khi Merlyn đứng lên, Aeron nói với ông ta, “Hãy ở lại và nghe cho kỹ này, có lẽ ông phải truyền lời của thần linh.”
Sóng vỗ quanh một tảng đá hoa cương tròn cách mép nước vài bước chân. Đó là nơi Aeron đang đứng, để người của ông có thể nhìn thấy ông, nghe được những lời ông phải nói.
“Chúng ta sinh ra từ biển, và rồi sẽ lại quay về với biển,” ông bắt đầu như hàng trăm lần trước đây. “Trong cơn đố kỵ, Thần Bão Tố đã giật đức vua ra khỏi lâu đài và quật ngã Người, giờ đây Người đang yến tiệc dưới những con sóng.” Ông giơ cao hai tay. “Vua Sắt đã chết! Rồi một đức vua mới sẽ xuất hiện! Vì những gì đã chết có thể không bao giờ tàn lụi, mà sẽ tái sinh, cứng rắn và mạnh
mẽ hơn!”
“Một đức vua mới sẽ xuất hiện!” Các thầy tu dòng chết chìm hô to.
“Sẽ có một đức vua mới. Phải có một đức vua mới. Nhưng đó là ai?” Damphair lắng nghe trong chốc lát, nhưng chỉ có sóng biển trả lời. “Ai sẽ là đức vua của chúng ta?”
Đám thầy tu bắt đầu đập các khúc gỗ dạt vào nhau. “Damphair!” họ hô to. “Vua Damphair! Vua Aeron! Để Damphair làm vua!”
Aeron lắc đầu. “Nếu một người cha có hai con trai, ông cho một người cái rìu còn người kia cái lưới thì ông ấy định chọn ai làm chiến binh?”
“Người có rìu,” Rus la lên trả lời, “cái lưới là dành cho người đánh cá.”
“Đó,” Aeron cất lời. “Thần linh đã dìm ta dưới những con sóng và nhấn chìm tất cả những gì vô giá trị trong con người của ta. Khi Người ném trả ta lên bờ, Người đã cho ta đôi mắt để nhìn, đôi tai để nghe, và giọng nói để truyền lời của Người, vì thế, ta là người truyền giáo của Người, rao giảng chân lý của Người cho những ai lãng quên nó. Ta không phải được sinh ra để lên ngai báu... ta cũng chẳng hơn gì Euron Mắt Quạ. Vì ta nghe được lời của thần linh, không kẻ vô thần nào có thể ngồi lên
Ngai Đá Biển của ta!”
Merlyn khoanh tay trước ngực. “Thế thì đó là Asha? Hay Victarion? Ngài hãy nói cho chúng tôi biết đi!”
“Thần Chết Chìm sẽ cho mọi người biết, nhưng không phải bây giờ”. Aeron chỉ vào khuôn mặt béo trắng của Merlyn. “Đừng trông chờ vào ta, hay vào luật của con người, mà hãy trông chờ ở biển cả.
Hãy căng buồm lên, hạ mái chèo xuống và dong thuyền đến Old Wyk. Ngài và tất cả các thuyền trưởng cũng như các tiểu vương. Đừng đến Pyke để quỳ gối trước kẻ vô thần, cũng đừng đến Harlaw để kết giao với con bé lắm mưu mô ấy. Hãy để mũi thuyền trực chỉ Old Wyk, nơi có cung điện của Vua Xám. Nhân danh Thần Chết Chìm, ta triệu tập các người. Ta triệu tập tất cả các người! Hãy rời đại sảnh hay lều trại, rời lâu đài hay vọng lâu của mình và quay về đồi Nagga để tổ chức Lễ bầu vua!”
Merlyn há hốc miệng nhìn Aeron. “Lễ bầu vua à? Lễ bầu vua thực sự đã không diễn ra từ...”
“Từ quá lâu rồi!” Aeron đau khổ kêu lên. “Từ buổi bình minh của lịch sử, người sắt đã lựa chọn vua bằng cách chọn ra người xuất sắc nhất trong số họ. Giờ là lúc chúng ta quay lại với Phong Tục Cũ,
vì đó là cách duy nhất để chúng ta lại trở nên vĩ đại. Chính Lễ bầu vua đã chọn Urras Chân Sắt làm Vua và đặt chiếc mũ miện bằng gỗ dạt lên đầu ông ta. Sylas Flatnose, Harrag Hoare, Thủy quái già, đều do Lễ bầu vua chọn ra cả. Lễ bầu vua sẽ chọn được một người để kết thúc công việc mà Vua Balon đã bắt đầu và giành lại tự do cho chúng ta. Ta nhắc lại, đừng đến Pyke, cũng đừng đến Mười Ngọn Tháp của Nhà Harlaw, mà hãy đến Old Wyk. Hãy tìm đồi Nagga và lâu đài xương của Vua Xám, vì tại nơi thiêng liêng đó, nơi mặt trăng mọc và lặn, chúng ta sẽ tìm được một vị vua ngoan đạo và
đáng kính.” Ông giơ đôi tay xương xẩu lên lần nữa. “Nghe đi! Xin hãy lắng nghe tiếng sóng! Lắng nghe thần linh mách bảo! Người đang nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ không có một vị vua nào khác ngoài vị vua được bầu chọn!”
Sau đó đám đông rộ lên như sấm động, các thầy tu lại đập những khúc gỗ vào nhau. “Lễ bầu vua!” Họ la hét. “Lễ bầu vua, lễ bầu vua. Không có vị vua nào khác ngoài vị vua được bầu chọn!” Tiếng hét của họ vang to đến nỗi chắc chắn Mắt Quạ ở Pyke và Thần Bão Tố đê tiện trong lâu đài mây của hắn
cũng nghe được. Aeron biết mình đã làm rất tốt.
- 🏠 Home
- Phương Tây
- Trinh Thám
- Tiệc Quạ Đen
- Chương 2: Người Truyền Giáo