Chương 11

Chúng tôi để mấy cái xác của “ma mới” tại chỗ (Vancha bảo chúng không đáng được chon) rồi khởi hành lúc trời chạng vạng. Trên đường đi, ông Crepsley kể cho ông hoàng về vụ lão Tí Nị ghé thăm Núi Ma-cà-rồng và những lời tiên đoán của lão. Trong khi ông Crepsley nói, ông hoàng ít lên tiếng, lẳng lặng suy nghĩ sau khi ông Crepsley dứt lời từ lâu. Sau cùng ông ta mới nói:-Chẳng cần tài giỏi gì cũng có thể đoán được: thợ săn thứ ba chính là ta.

Ông Crepsley nói ngay:

-Ngài không đoán được mới là điều lạ.

Vancha gỡ cọng cây từ kẽ răng, ném đi, rồi nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đường. Ông ta là bậc thầy trong vụ phun nước bọt – bãi nước bọt thành viên đặc quánh, xanh lè có thể bay trúng phóc một con kiến cách xa hai mươi bước. Ông khinh khỉnh nói:

-Ta không tin lão láu cá Tí Nị đó. Ta đã gặp lão mấy lần, và thái độ của ta là luôn làm ngược lại những gì lão nói.

Ông Crepsley gật đầu:

-Nói chung, tôi cũng đồng ý vậy. Nhưng đây là thời điểm nghèo, thưa ngài…

Ông hoàng ngắt lời:

-Larten! Trên đường đi, gọi ta là Vancham March hay…ừ, là Xấu Xí cũng được. Ta đâu bắt anh phải khúm núm như thế chứ.

Ông Crepsley cười thoải mái:

-Tốt thôi… xấu xí.

Nhưng rồi giọng ông nghiêm túc lại:

-Vancha, giai đoạn này rất nguy hiểm. Tương lai giống nòi chúng ta đang khốn đốn. Chúng ta có nên cả gan làm ngơ trước lời tiên tri của Tí Nị không? Nếu còn hy vọng, chúng ta nên nắm lấy chứ.

Vancha thở dài thiểu não:

-Mấy trăm năm nay lão tin là chúng ta sẽ bị tiêu diệt vì chiến bại khi nào Chúa tể Ma-cà-chớp xuất hiện. Sao bây giờ lão lại bảo chúng ta có thể tránh được thảm họa đó, nếu làm theo chỉ thị của lão?

Nhổ toẹt một bãi nước bọt vào lùm cây, ông hoàng nói đầy miệt thị:

-Ta thấy mấy lời nói của lão chỉ thối hoắc như phân.

-May ra Evanna có thể làm sáng tỏ điều này. Bà ta chia xẻ một số quyền năng của Tí Nị và có thể đoán được tương lai. Rất có thể bà ta có khả năng xác định hay bác bỏ lời tiên tri của lão.

-Nếu đúng vậy, ta sẽ tin lời Evanna. Bà ta kín tiếng, nhưng khi nào nói là nói sự thật. Nếu bà ta bảo, định mệnh của chúng ta nằm trên đường đi, ta sẽ vui mừng gắn bó với anh, nếu không…

Ông ta nhún vai bỏ lửng câu nói.

Vancha March rất kì quái nhưng dễ thương! Tôi chưa gặp ai giống như ông. Cái gì cúng có tập quán riêng. Ngoài những gì tôi đã biết về ông như: không ăn thịt nấu nướng, không uống gì ngoài sữa, máu và nước lã, chỉ mặc quần áo tự chế bằng da thú hoang dã. Nhưng trong sáu đêm trên đường tới công nương Evanna tôi còn được biết thêm rất nhiều về ông.

Ông theo đương lối cổ xưa của ma-cà-rồng. Từ xửa từ xưa, ma-cà-rồng tin rằng chúng tôi là hậu duệ của loài sói. Nếu sống tốt lành và trung thực với đức tin, khi chết chúng tôi sẽ trở lại thành sói, ngao du vào vùng hoang dã trong cõi bồng lai, như những con vật của đêm dài bất diệt. Tại đó, họ sống giống sói hơn người, tránh khỏi nền văn minh – trừ khi họ cần uống máu -, tự làm quần áo, theo luật thiên nhiên.

Vancha không ngủ trong quan tài – ông bảo quan tài quá thoải mái! Theo ông ma-cà-rồng nên ngủ ngoài trời, chỉ dung ngay tấm áo của mình làm chăn đắp. Ông tôn trọng những ma-cà-rồng ngủ trong quan tài, nhưng rất coi thường những ai ngủ trên giường. Tôi không dám cho ông biết là tôi rất khoái nằm võng.

Ông rất quan tâm tới những giấc mơ, và thường ăn nấm dại, chúng mang lại những giấc mơ và ảo ảnh sống động. Ông tin, tương lai được chép ra từ những giấc mơ, và nếu chúng ta giải đoán được chúng, chúng ta có thể kiểm soát được định mệnh. Ông mê mẩn những cơn ác mộng của Harkat, bỏ hàng mấy tiếng đồng hồ để bàn cãi với anh chàng Tí Hon.

Vũ khí duy nhất của ông là shuriken (những ngôi sao có thể ném xa) mà ông đã tự chế bằng nhiều thứ kim loại và đá. Ông nghĩ, đánh giáp lá cà chính xác nhất là… đấu bằng tay. Không bao giờ ông đυ.ng tay vao kiếm, giáo hay rìu.

Một buổi chiều, khi sắp nhổ trại, tôi hỏi:

-Nhưng gặp một gã có kiếm, ngài phải làm sao? Chạy à?

-Ta không chạy trước bất cứ vũ khí nào. Đây, để ta cho mi thấy.

Đứng trước tôi, ông xoa hai tay rồi bảo tôi hãy rút kiếm ra. Thấy tôi ngập ngừng, ông vỗ vai tôi, cười nhạo:

-Sợ à?

-Tất nhiên là không, nhưng cháu không muốn làm ngài bị thương.

Ôn cười lớn:

-Có gì đáng ngại lắm đâu, phải không Larten?

Ông Crepsley do dự nói:

-Tôi không biết chắc được. Darren chỉ là một ma-cà-rồng nửa mùa, nhưng nó rất sắc sảo. Nó có thể thử sức được với ông đó, Vancha.

-Tốt. Ta khoái những đối thủ xứng tầm.

Tôi nhìn ông Crepsley nài nỉ:

-Cháu không muốn đấu với người không có vũ khí đâu.

Vancha la lớn, vung vẩy hai tay:

-Không vũ khí? Ta có hai tay này.

Ông Crepsley giục tôi:

-Bắt đầu đi. Vancha biết ông ấy đang làm gì mà.

Rút kiếm, đối diện Vancha, tôi tấn công không mấy nhiệt tình. Ông ta không nhúc nhích, thản nhiên nhìn tôi hơi nâng mũi kiếm lên. Vancha khịt mũi, lèm bèm:

-Thật cảm động.

-Trò này ngu ngốc quá. Cháu không…

Tôi chưa dứt lời, ông ta lao tới, nắm cổ họng tôi, móng tay cắt một đường đau nhói trên cổ. Loạng choạng bật ra sau, tôi thét lên:

-Ui da!

Vancha khoái chí nói:

-Lần sau ta sẽ cắt đứt mũi mi.

-Không dám đâu!

Tôi gầm lên, vung kiếm xông tới, lần này rất bài bản. Vancha nhẹ nhàng né tránh, cười hớn hở:

-Phải thế chứ.

Mắt không rời tôi, ông ta chạy quanhm ngón tay từ từ xòe ra. Hạ thấp mũi kiếm, chờ ông ta dừng lại, tôi tiến lên, đâm. Tưởng ông ta sẽ nhảy sang một bên, nhưng thay vì né tránh, Vancha đưa bàn tay phải gạt phăng lưỡi kiếm, như… gạt một cái que. Tôi cố thu hồi kiếm, ông ta bước tới, bắt cổ tay tôi, vặn mạnh, làm tôi phải buông rơi thanh kiếm. Và… tôi mất vũ khí.

-Thấy chưa?

Mỉm cười, ông ta lùi lại, đưa cao hai tay chứng tỏ cuộc đấu đã kết thúc.

-Nếu đấu thật, đít mi nát bét rồi.

Vancha phát ngôn rất… khϊếp. Đó là một trong những lời rủa xả danh tiếng nhất của ông.

Vừa xoa cổ tay đau, tôi vừa giận dỗi bảo:

-Tuyệt vời. Nhưng ông đánh một thằng ma-cà-rồng nửa mùa thôi. Làm sao thắng được một ma-cà-rồng thực thụ hay một ma-cà-chớp được.

-Có thể chứ và ta đã từng thắng rồi. Vũ khí chỉ dành cho lũ nhát gan. Kẻ nào học chiến đấu bằng tay luôn có lợi thế hơn những kẻ lệ thuộc vào dao kiếm. Biết vì sao không?

- Vì sao?

- Vì chúng mong thắng. Vũ khí là giả tạo – không phải của thiên nhiên – và nó tạo ra niềm tin giả. Khi chiến đấu, ta trông chờ cái chết. Ngay lúc này, khi đấu với mi, ta đã dự tính đến cái chết và phó thác thân mình cho nó. Darren, chết là điều tồi tệ nhất mà thế giới này có thể quăng vào mi – nếu chấp nhận điều đó, không quyền lực nào có thể khống chế mi.

Nhặt thanh kiếm lên, ông trao lại cho tôi, rồi đứng nhìn xem tôi sẽ làm gì. Tôi có cảm giác ông muốn tôi quăng vũ khí đi – và tôi cũng ước ao làm như thế, để được ông vị nể. Nhưng không có vũ khí, tôi cảm thấy mình như trần trụi, vì vậy tôi tra kiếm lại vào bao. Đứng nhìn xuống đất, tôi cảm thấy hơi xấu hổ.

Vancha âu yếm bóp nhẹ gáy tôi, bảo:

- Đừng bận tâm. Mi còn trẻ, còn rất nhiều thời gian học hỏi.

Mắt ông nhíu lại khi nghĩ tới lão Tí Nị và chúa tể Ma-cà-chớp, rồi ông buồn rầu nói thêm:

- Ta hy vọng thế.

Tôi yêu cầu Vancha dạy tôi cách chiến đấu tay không. Tôi đã quan sát cuộc đấu không vũ khí trong Núi Ma-cà-rồng, nhưng đó là cuộc đấu với những đối thủ cũng không có vũ khí. Ngoài mấy bài học liên quan tới cách phải làm sao nếu bị mất vũ khí trong trận đánh, tôi chưa bao giờ được dạy cách đấu với một kẻ thù vũ khí đầy đủ, chỉ với hai bàn tay. Ông Vancha bảo, phải mất nhiều năm tập luyện và sẽ bị bầm dập rất nhiều trong thời gian học. Tôi không quan tâm mấy chuyện đó – tôi mê tít ý nghĩ sẽ chiến thắng một ma-cà-chớp có vũ khí, bằng hai bàn tay không.

Không thể huấn luyện trên đường đi, nhưng những khi nghỉ ngơi vào ban ngày, Vancha nói cho tôi biết về vài chiến thuật cản phá căn bản và hứa sẽ cho tôi thực hành khi tới chỗ của bà Evanna.

Ông hoàng không nói gì nhiều hơn những điều ông Crepsley đã cho tôi biết về bà phù thủy, tuy nhiên ông có nói thêm: bà ta là một người đàn bà vừa đoàng hoàng nhất vừa kém hấp dẫn nhất – điều này cũng chẳng làm tôi biết được gì hơn.

Tôi tưởng Vancha chống đối ma-cà-chớp rất mạnh mẽ - khinh miệt ma-cà-chớp nhất thường là những ma-cà-rồng chìm ngập trong đường lối cổ - nhưng tôi ngạc nhiên thấy ông không hề chống đối chúng. Mấy đêm trước khi tới nơi bà Evanna, ông nói:

- ma-cà-chớp cao thượng và chân thật. Ta chỉ không đồng ý với thói quen ăn uống của chúng. Không cần thiết gϊếŧ người khi xin họ chút máu. Về mặt khác, ta khâm phục chúng.

Ông Crepsley nói:

- Vancha đã tiến cử Kurda Smahlt trở thành ông hoàng.

- Ngài không…

Tôi ho và bỏ lửng câu đang nói. Vancha bảo:

- Nghĩ gì, cứ nói ra đi.

- Sau những gì ông ta đã làm – dẫn dắt ma-cà-chớp chống lại chúng ta – ngài có áy náy không?

- Không. Ta không chấp thuận hành động của anh ta, và nếu có mặt tại Hội Đồng, ta cũng sẽ không lên tiếng bênh vực. Nhưng Kurda nghe theo tiếng nói của con tim. Anh ta hành động vì muốn điều tốt cho thị tộc. Dù Kurda lầm đường, ta không nghĩ anh ta thật sự là một tên phản bội. Hành động sai, nhưng động cơ thúc đẩy thì trong sáng.

Harkat lên tiếng:

- Tôi đồng ý. Tôi nghĩ, Kurda đã bị đối xử thiếu công bằng. Bị gϊếŧ sau khi bị bắt là… đúng, nhưng sẽ là sai lầm khi gọi ông ta là một kẻ vô lại độc ác và không được nêu tên trong.. Cung Ông Hoàng.

Tôi nín lặng. Tôi đã từng quý mến Kurda vô cùng, và biết ông ta đã làm hết sức mình để ma-cà-rồng tránh khỏi sự phẫn nộ của Chúa tể Ma-cà-chớp. Nhưng…ông ta đã gϊếŧ một người bạn của tôi-Giarver Purl – và đưa đến nhiều cái chết khác nữa, trong đó có Arra Sails, một nữ ma-cà-rồng từng là bạn tình của ông Crepsley.

Một hôm, trước khi tới cuối cuộc hành trình đầu tiên, tôi được biết đặc tính kẻ thù thật sự của ông hoàng Vancha. Đang ngủ, mặt tôi bị ngứa – vì hậu quả của thanh tẩy – tôi ngồi dậy gãi. Lúc đó mới gần trưa, nhưng tôi thấy ông Vancha ném quần áo sang một bên, chỉ cuốn một mảnh da nai quanh thắt lưng, đang xoa nước bọt lên người. Tôi hỏi nhỏ:

- Vancha, ngài đang làm gì vậy?

- Ta sắp đi dạo.

Vừa trả lời ông ta vừa tiếp tục xoa nước bọt lên vai và cánh tay. Tôi nhìn lên, không chút mây nào che ánh mặt trời. Tôi bảo:

- Nhưng đang là ban ngày mà!

- Thật vậy sao?

Chẳng hiểu ông ta có bị “ấm đầu” đến quên mình là ai không, tôi nhắc.

- Ma-cà-rồng bị phỏng dưới ánh nắng.

- Không bị ngay lập tức đâu. Có bao giờ mi tự hỏi vì sao ma-cà-rồng bị đốt cháy dưới mặt trời chưa?

- À… chưa…

- Chẳng có nguyên nhân nào hợp lý cả. Theo chuyện kể của loài người, thì là vì chúng ta là ma quỷ, mà ma quỷ thì không thể đối diện mặt trời. Nhưng vô lý… vì chúng ta đâu phải là ma quỷ, mà dù có là ma quỷ, chúng ta vẫn có thể đi lại vào ban ngày được chứ. Hãy nhìn loài sói. Giả sử chúng ta là hậu duệ của chúng, nhưng chúng có thể chịu đựng được ánh mặt trời. Thậm chí những sinh vật của đêm tối, như loài dơi và cú đều có thể sống được vào ban ngày. Vậy thì vì sao mặt trời lại gϊếŧ chết ma-cà-rồng?

- Cháu không biết. Vì sao vậy?

Vancha phá lên cười:

- Phải chi ta biết! Chẳng ai biết hết. Một số quả quyết là chúng ta mắc lời nguyền của phù thủy hay yêu tinh, nhưng ta nghi là… thế giới này đầy rẫy nô bộc của nghệ thuật u tối, nhưng không kẻ nào có khả năng nguyền rủa chết người như thế. Linh cảm của ta là Desmond Tí Nị.

- Lão Tí Nị liên quan gì tới chuyện này?

- Theo truyền thuyết xa xưa – hầu như đã bị quên lãng – Tí Nị đã tạo ra ma-cà-rồng đầu tiên. Chuyện kể: lão thí nghiệm trên loài sói và pha trộn máu của chúng với máu người, kết quả là…

Ông ta đưa tay vỗ lên ngực. Tôi nghi ngờ:

- Vô lý quá!

- Có thể. Nhưng nếu những truyền thuyết đó là thật, thì mối liên quan giữa mặt trời và sự yếu đuối của chúng ta là tác phẩm của Tí Nị. Người ta bảo, lão sợ chúng ta trở nên quá mạnh sẽ thâu tóm thế giới, nên lão làm ô uế máu của chúng ta, làm chúng ta thành nô ɭệ của đêm tối.

Ông ngừng xoa nước bọt, ngước lên, mắt gườm gườm nhìn những tia sáng mặt trời, lặng lẽ nói:

- Không gì tồi tệ hơn kiếp nô ɭệ. Nếu những chuyện đó là thật, và chúng ta phải là nô ɭệ của đêm tối vì sự can thiệp của Tí Nị thì… con đường duy nhất để giành lại tự do, chỉ có thể là… chiến đấu. Chúng ta phải tóm lấy kẻ thù, nhìn thẳng mặt, và nhổ nước bọt vào mắt nó.

- Ý ngài là… chiến đấu với lão Tí Nị?

- Không trực tiếp. Khó mà tóm được lão ta.

- Vậy thì ai?

- Chúng ta phải chiến đấu với nô bộc của lão.

Nhìn tôi ngẩn ra, ông giải thích ngay:

- Mặt trời!

- Mặt trời? Làm sao ngài có thể đánh nhau với mặt trời?

- Đơn giản thôi. Đối diện nó, tiếp nhận hơi thở của nó, rồi cứ thế làm lại nhiều lần hơn nữa. Nhiều năm qua, ta đã tự ép buộc mình chịu đựng tia sáng mặt trời. Cứ vài tuần ta lại đi chừng một tiếng vào ban ngày, để mặt trời thiêu đốt, làm cho da và mắt ta cứng rắn hơn, thách thức nó, thử xem ta có thể chịu đựng và sống sót được bao lâu.

Tôi cười sằng sặc:

- Ngài điên rồi. Ngài nghĩ có thể chiến thắng mặt trời thật sao?

- Tại sao không chứ? Kẻ thù là kẻ thù. Nếu nó có thể giao chiến, thì cũng có thể bị đánh bại.

- Ngài thấy có tiến bộ chút nào không?

Ông thở dài:

- Thật ra ta cảm thấy gần giống như khi mới bắt đầu. Ánh sáng làm ta như bị lòa – cả ngày sau ta mới nhìn lại bình thường được và mới bớt nhức đầu. Chỉ mười hay mười hai phút, những tia bức xạ làm ta đỏ lên, và ngay sau đó đau nhức vô cùng. Đôi khi ta cố chịu đựng gần tám mươi phút, nhưng cuối cùng bị bỏng thảm bại, phải mất năm sáu đêm nghỉ ngơi hoàn toàn mới hồi phục.

- Ngài bắt đầu cuộc chiến này từ bao giờ?

- Để coi… Khi bắt đầu, ta chừng hai trăm tuổi. Bây giờ ta đã hơn ba trăm, vì vậy ta đoán là… chừng một thế kỷ.

Hầu hết ma-cà-rồng đều không biết chính xác tuổi- sống quá lâu như họ, ngày sinh nhật chẳng có nghĩa gì.

Tôi nghẹn thở:

- Một trăm năm! Có bao giờ ngài nghe câu thành ngữ “húc đầu vào tường” chưa?

Ông khoái chí ra mặt:

- Tất nhiên. Nhưng Darren, mi quên là ma-cà-rồng đập vỡ tường bằng đầu rồi sao?

Nói xong, ông nháy mắt, vừa huýt sáo vừa tiến ra trời nắng, bước vào cuộc chiến điên rồ với quả cầu khổng lồ đang rực cháy, lơ lửng từ hàng triệu triệu cây số trên bầu trời.