Sau khi ra khỏi đại mạc, Tương Thanh vội tìm một khách điếm nghỉ chân. Lúc đã nằm trên giường, y bắt đầu cân nhắc mọi việc. Đám người ăn mặc quái dị này nhìn hết sức thần bí, lại có tâm phản loạn, ắt hẳn chúng là dị tộc. Từ cuộc đối thoại vừa nãy, xem ra tên hắc y nhân cầm đầu kia là kẻ có địa vị, lại còn có một ca ca đang làm quan. Nói không chừng chính hắn cũng có một chức quan nào đấy. Mặt khác, những người đó dùng binh khí của đại quân Thịnh Thanh, cũng là của quân chính quy vùng Tây Bắc. Tây Bắc đóng quân tổng cộng có ba bộ phận: Lạc Phường Lạc gia quân, Tề Mật tây bắc quân, còn có nhóm kỵ binh của Khổng Di Phi. Lực lượng nhân mã này đều đóng tại những trạm kiểm soát trọng yếu ở vùng này, nếu đám người kia thật sự trà trộn vào đây thì mọi chuyện càng đáng lo ngại hơn.
Nghĩ đến đó, Tương Thanh quyết định sáng mai phải đi thăm hỏi tình hình. Nếu đúng chỉ có một nhóm nhỏ phản động thì không khó giải quyết, nhưng nếu quy mô quá lớn thì phải nhanh cấp báo cho Ngao Thịnh biết. Nhưng rồi khi nghĩ đến việc truyền tin, Tương Thanh lại thấy phiền lòng. Hay là cậy nhờ người khác, không được, tự mình đi vẫn hơn, nhưng…thôi, quên đi, cứ điều tra rõ ràng hẵng tính sau.
Thôi không suy nghĩ nữa, xoay người, ôm gối, ngủ.
Sáng sớm hôm sau, kẻ cả đêm mộng thấy mình ôm Tương Thanh ngủ bị tiếng gõ chuông của thái giám lay tỉnh, nghe thấy ngoài cửa giọng thái giám nơm nớp lo sợ bẩm trình: “Hoàng Thượng, đã đến giờ lâm triều!”
Ngao Thịnh ngồi dậy, gật gật đầu rồi rời giường mặc y phục.
Nhóm thái giám, cung nữ đều rất sợ Ngao Thịnh. Nói thế nào thì một số tên nô tài có tuổi khi Ngao Thịnh còn bé đều từng khi dễ hắn. Đến khi hắn lớn, lại thấy hắn hỉ nộ vô thường. Bất quá Ngao Thịnh dù có quái gở đến đâu, đối văn võ trọng thần có đôi khi nói gϊếŧ liền gϊếŧ, nhưng lại không mấy khi khó dễ đám hạ nhân. Tuy vậy tất cả chúng đều nom nớp lo sợ lúc hầu hạ hắn. Ngao Thịnh cũng biết việc này và đây chính là thứ hắn muốn, đồng thời cũng là điều mà mẫu thân đã dạy hắn – Muốn để người khác e sợ con quả thật không khó, chỉ cần đừng cho người khác biết con đang nghĩ gì trong đầu. Nhưng đồng thời, muốn người khác yêu con cũng muôn phần khó khăn…Có đôi khi thật tâm cho đi, lại sẽ không nhận được thật tâm hồi báo.
Trong lúc dùng điểm tâm, Ngao Thịnh theo thường lệ gọi vài ảnh vệ đến hỏi han: “Thanh vẫn còn ở phương Bắc sao?”
Ảnh vệ đáp: “Vâng, hai ngày này đều ở Duyên thành, chưa từng rời đi.”
Ngao Thịnh gật đầu, đứng dậy vào triều.
Mỗi ngày lâm triều kỳ thật cũng không có gì đổi mới, có thiên tai thì quyên tiền cứu giúp, địa phương nào thu hoạch bội mùa thì làm lễ chúc mừng….Ngao Thịnh đặc biệt hỏi một chút tình hình Tây Bắc thì nghe đại thần đáp: “Tổng thể mà nói đều rất thái bình, bất quá sát biên giới phương Bắc có một ít ngoại tộc những ngày gần đây đều đang thao binh diễn mã, mở rộng binh lực, đặc biệt bộ tộc Dã Lũng, xem chừng là có dã tâm…. Không biết chúng ta có nên tìm một công chúa đi hòa thân?”
Ngao Thịnh nghe xong khẽ nhíu mày, cười nhạo: “Trẫm thì chẳng có công chúa nào, không bằng các khanh hỏi những ngoại tộc ấy có nha đầu nào đẹp không, trẫm cho các khanh nạp làm tiểu thϊếp, cũng coi như là hòa thân.”
Các đại thần xấu hổ cắm mặt xuống đất, lại nghe Ngao Thịnh thản nhiên nói tiếp: “Dâng nữ nhi cho chúng cũng vô dụng. Mau ra lệnh cho tướng lĩnh Mạc Bắc cùng Trung Bộ chấn chỉnh tinh thần quân sĩ, mấy ngoại tộc du mục ấy dù có lợi hại thì cũng có được bao người? Cứ đơn giản đem quân đánh, chết hết là yên chuyện.”
Các đại thần liếc mắt nhìn nhau, rồi cúi đầu hành lễ: “Hoàng Thượng thánh minh…”
Ngao Thịnh nói thầm, ta nếu dâng nữ nhi sang cho chúng thì liệu các ngươi có dám không gọi ta là thánh minh sao? Một câu thánh minh này thật chẳng đáng mấy đồng.
“Còn có việc gì không?” Ngao Thịnh nhìn quét qua đám văn võ bá quan, thấy các đại thần cũng không hé môi, xem ra là hết chuyện rồi nên bèn đứng lên, nhưng vừa xoay người đã đột nhiên dừng lại, nói: “Đúng rồi, thí võ năm nay hãy mở nhiều hơn vài khoa, giảm bớt quy định điều kiện gì đấy đi, tạo cơ hội cho những người tập võ không chạy sang Hắc Vân Bảo và Tu La Bảo nữa, đồng thời cũng đưa những người đó vào triều nhậm chức.”
“Hoàng Thượng.” Một vị quan thuộc Lại bộ
TruyenHDra khỏi hàng tấu trình “Năm nay mọi chuyện tốt hơn trước, Hắc Vân Bảo cùng Tu La Bảo từ năm trước đã không thu nhận đệ tử.”
Ngao Thịnh gật đầu, cười lạnh: “Một tên Tư Đồ đã đủ phiền, lại còn thêm một Tần Vọng Thiên…Các khanh cũng nên có chút ý chí phấn đấu một chút, đừng có lúc nào cũng nghĩ phải làm sao để lấy bạc của dân. Tốt xấu gì cũng hãy dành chút tinh lực lo nghĩ những chuyện đứng đắn, đừng để một ngày nào đó chiến tranh xảy ra, lại phải cùng những tên giang hồ thảo khấu sung quân một lượt.” Nói xong xoay người đi, thái giám hô: “Bãi triều.”
Quần thần tán đi.
“Tướng gia.” Thái thú Vương Sâm gọi lại tả thừa tướng
TruyenHDQuý Tư.
“Vương Thái Thú, có việc gì sao?” Quý Tư năm nay hơn năm mươi tuổi, là một văn nhân gầy ốm, dáng dong dỏng cao, có chòm râu dài, tư thái làm người nhã nhặn, lễ độ, lại trung thực nên Ngao Thịnh có phần trọng vọng ông.
Vương Sâm năm nay cũng không trẻ, tầm bốn mươi thì mới nhậm chức Thái Thú, là một võ quan, khi Ngao Thịnh còn trong thời kì khó khăn ông vẫn trung thành đi theo, vốn là người có đôi mắt tinh tường. So với văn quan, Ngao Thịnh tựa hồ ưu đãi võ quan hơn, đại khái có thể vì hắn cũng là người luyện võ.
“Theo ý tứ của Hoàng thượng, có phải là muốn chúng ta phái binh xuống tây bắc?” Vương Thái Thú hỏi.
Quý Tư vuốt râu, ra chiều gật gù: “Gần đây sát biên giới phía bắc, bộ tộc Dã Lũng đang có phần lớn mạnh, ta đoán Hoàng Thượng muốn lúc bọn họ còn chưa ổn định, sớm ra tay dẹp loạn?”
“Umm…” Vương Thái Thú suy nghĩ một chút, đoạn lại nói: “Tả tướng, không bằng lần này hãy để Hi nhi đi? Nó đi theo Linh lão tướng quân, cũng từng qua chinh chiến, tôi muốn nó học hỏi thêm kinh nghiệm, tốt nhất là có thể một mình đảm đương những chuyện như thế này.”
Quý Tư tán thành: “Tốt lắm, Hi nhi là một nhân tài, chi bằng hãy tiến cử với Hoàng thượng.”
“Hiện tại, tôi chuẩn bị tìm Hoàng Thượng, chuyện đó… Tả tướng, ngài cùng đi với tôi có điều tiện hơn.” Vương Thái Thú có chút xấu hổ: “Thật lòng, Hoàng thượng… quá lợi hại, ta một mình đi gặp người, tôi lại chẳng dám nói gì mất thôi.”
“Ha ha….” Quý Tư lắc đầu: “Lợi hại mới tốt, đi, cùng đi thôi!”
Dứt lời, hai cựu thần đi ra khỏi đại điện, hướng về phía thư phòng Ngao Thịnh.
Đi qua đoạn hành lang gấp khúc, cả hai bỗng nghe thấy có tiếng ẩu đả, liếc mắt ra hiệu cho nhau, liền chuyển hướng không đi thư phòng mà ra thẳng hoa viên. Quả nhiên, vừa đặt chân vào đã thấy vài binh sĩ bị đánh bay ra ngoài, Ngao Thịnh đứng giữa sân, lắc đầu: “Các ngươi không có tiền đồ gì cả, không bằng cả cao thủ đại nội.”
Các binh sĩ đồng loạt quỳ xuống nhận sai, thầm trách cứ, võ công của người không phải là học từ Hắc Vân Bảo sao, người bình thường ai đánh thắng được người.
Ngao Thịnh vài năm nay đều khổ luyện võ công Tương Thanh đã dạy cho hắn, còn phái người tìm về không ít tàn tịch bí kiếp võ học, hắn vốn thông minh, nên học rất nhanh. Bây giờ, phải thừa nhận rằng công phu của hắn rất xuất chúng, đừng nói chỉ ở trong cung, thậm chí ra giang hồ, cũng không mấy người vượt qua hắn.
Ngao Thịnh mặc áo khoác vào, ngẩng đầu nhìn hai người vừa đến: “Vào đi, đứng đấy làm gì?”
Thái thú và tả tướng cùng đi đến, hành lễ với Ngao Thịnh.
Ngao Thịnh nhìn hai quan lão trước mặt, cuối cùng tầm mắt rơi xuống Vương thái thú: “Khanh muốn để Vương Hi đi Tây bắc ư?”
Vương Thái Thú hít sâu một hơi, liếc nhìn người bên cạnh, vui thầm vì đã mời tướng gia đi cùng bằng không dù có ngồi ê mông ở đây cũng không làm được trò trống gì.
“Hoàng Thượng thật là thần cơ diệu toán.” Vương Thái Thú nhanh hành lễ với Ngao Thịnh: “Hi nhi nó…”
“Trẫm thấy thế cũng được.” Ngao Thịnh cắt ngang lời ông: “Cứ như vậy đi, ngày mai khanh bảo Vương Hi đến đây, trẫm có chuyện muốn phân phó cậu ta làm.” Nói đoạn lại nhìn hai người: “Còn chuyện gì nữa không?”
“Hết…hết rồi.” Hai vị cựu thần cáo từ xong liền nhanh chóng rời khỏi hoa viên, hoan hoan hỉ hỉ hồi phủ.
Sáng ngày kế, Vương Hi sau khi gặp Ngao Thịnh, liền chuẩn bị hành lý, thống lĩnh hai mươi vạn tinh binh, chậm rãi tiến đến Tây Bắc.
Tương Thanh mấy ngày nay đều dò hỏi chung quanh doanh trại. Đầu tiên, tướng lĩnh trông giữ ba quân đều không có huynh đệ tỷ muội bên cạnh nên y cũng thoáng yên tâm. Ít nhất người y cần tìm không phải là kẻ trực tiếp có binh quyền trong tay. Về phương diện khác, y còn phát hiện kí hiệu Thịnh Thanh trên binh khí đã dùng được từ hai năm trước, đó là khi Ngao Thịnh vừa đăng cơ, hiện tại mọi thứ đã đổi khác. Sau khi dò hỏi thì thấy, trong các thống lĩnh quân đội tây bắc thì Lạc Phường và Khổng Di Phi đều do Ngao Thịnh mới điều tới, bởi vậy quân trang cũng mới. Cho nên trong doanh trại của hai vị tướng quân này không thể tìm ra thứ binh khí cũ kĩ ấy. Trong thời gian này, y cũng điều tra được, chỉ có quân của Tề Mật mới dùng những binh khí xưa cũ đó….Nói cách khác, nhóm bạch y nhân kia có thể đã trà trộn trong quân doanh của Tề Mật.
Đến giờ ăn, Tương Thanh đi đến một tiểu lâu nhỏ, vừa ăn vừa nghĩ cách lẻn vào để tìm hiểu kĩ càng hơn về đại doanh của Tề Mật. Nhưng ngẫm lại, có đi vào cũng vô dụng thôi. Đêm đó y không nhìn được diện mạo của tên hắc y nhân kia, làm thế chẳng khác nào vẽ đường cho chúng tìm được y.
Đang nghĩ ngợi, lại thấy đường xá náo loạn. Tương Thanh ngước nhìn, chỉ thấy nha dịch địa phương đang nói gì đấy với những tiểu thương, khiến họ nhanh chóng thu dọn đồ đạc, rút lui khỏi ngã tư đường.
“Aiii, có phải là có quân binh đến?” Vài thực khách gần đấy nhỏ giọng nghị luận.
“Hẳn là vậy, hay lại sắp có đánh nhau?”
“Không biết nữa, tân hoàng rất thánh minh, sau khi người đăng cơ, cuộc sống của chúng ta đã tốt hơn rất nhiều.”
“Phải a, nhưng tôi cũng không muốn đánh nhau đâu, tháng sau vợ tôi sinh rồi!”
Tương Thanh nghe được có chút khó hiểu, nhẹ nhàng vỗ vai thực khách bên cạnh hỏi: “Vị đại ca này, các vị đang nói đến chuyện gì vậy?”
Mấy thực khách kia quay đầu lại nhìn Tương Thanh, trố mắt ra hỏi ngược lại: “Huynh đài không biết gì sao? Từ xứ khác tới à?”
Tương Thanh gật đầu: “Đã xảy ra chuyện gì?”
“Ai…Không phải phía tây có tộc Dã Lũng gì đấy đang tác loạn sao, nên mới có chuyện tăng thêm quân từ hoàng thành đến, nghe nói có khoảng hai mươi vạn đại quân” Thực khách giải thích với Tương Thanh: “Tiểu ca à, huynh nếu là người xứ khác, không có chuyện gì quan trọng thì đừng ở đây lâu, mau quay về thì tốt hơn!”
Tương Thanh khẽ nhíu mày: “Dã Lũng tộc?”
“Huynh không biết Dã Lũng tộc?” Thực khách kia cười cười: “Xem chừng huynh vừa tới Duyên thành phải không?”
“Phải, tôi mới đến được mấy ngày.” Tương Thanh mang bầu rượu còn chưa mở nắp của mình sang, mời các vị thực khách một chén, còn bảo tiểu nhị mang đến một vài món nhấm: “Các vị đại ca, chúng ta vừa ăn vừa nói chuyện, các huynh có thể kể cho tôi nghe một ít sự tình của tộc Dã Lũng này chăng?”
Các thực khách đương nhiên rất thích tán chuyện, nay lại có món ngon rượu thơm, liền đáp ứng Tương Thanh.
“Dã Lũng tộc vốn là một dị tộc sống du mục chỉ có mấy trăm người. Họ sống du canh du cư trong đại mạc, dựng lều làm nhà, nuôi ngựa và lạc đà, rất đỗi bình an. Nhưng rồi vài năm trước, có một tên tiểu tử của Dã Lũng tộc, tên là Dã Lũng Kì. Tiểu tử này dũng mãnh thiện chiến, có dũng có mưu, dã tâm cũng không nhỏ. Đầu tiên, hắn đánh cướp hàng hóa của thương nhân qua đường, tích góp từng chút một tài sản. Sau đó hắn lại thống lĩnh tất cả nam nhân Dã Lũng, bắt đầu chinh chiến trong đại mạc, thu nạp hết những tộc du mục khác làm thủ hạ của mình, thế lực dần dần mở rộng. Mới chừng một hai năm mà đã thu thập được khoảng hơn một vạn con ngựa, bắt đầu tấn công một số quận thành nhỏ phía tây, trước đánh cướp địa bàn của ngoại tộc. Sau nhiều trận thắng, đã thâu tóm mọi tiểu quốc, thành lập nên một Dã Lũng quốc, như hổ rình mồi, có thể ngày một ngày hai tấn công Thịnh Thanh ta.” Thực khách lắc đầu: “Phía nam và phía bắc đều rất khó đánh vào, duy chỉ mỗi chỗ phía tây này là có sơ hở, nên hoàng thượng mới phái người đến trấn thủ.”
Tương Thanh sau khi nghe xong liền gật gật đầu hỏi: “Dã Lũng Kì năm nay bao nhiêu tuổi?”
“Chắc chừng ba mươi cũng nên….” Mấy thực khách suy đoán: “Nghe nói hắn rất lợi hại.”
“Dã lũng tộc có thói quen gì đặc thù không?” Tương Thanh tiếp tục thăm dò: “Tỷ như hiến tế linh tinh gì đấy.”
“Aaa, dã lũng tộc hình như là cúng bái xà thần.” Một thực khách khác nói: “Nghe nói rất tín phụng thằn lằn thì phải.”
Khi nói chuyện, chợt nghe thấy tiếng vó ngựa sầm sập bên ngoài, có rất nhiều quân mã vào thành, xuyên qua đường cái Duyên thành đến biên giới tây bắc, lần này bọn họ chuẩn bị đóng quân ngoài thành, Duyên thành như bị vây tắc.
Binh mã hùng hổ đi ngang, chợt có một chiến mã chạy ra khỏi đội ngũ, đứng ở ngoài cửa tửu lâu. Một người vận hắc y, đội mũ bạc lập tức nhảy xuống ngựa, cầm trên tay một hộp gỗ, vội chạy vào khách điếm đến thẳng bàn Tương Thanh.
Tương Thanh khẽ nhíu mày, vừa định đứng lên, lại nghe người kia hô hào: “Thanh phu tử, huynh coi như không biết ta sao? Ta là Vương Hi đây mà!”
Tương Thanh sửng sốt, quay đầu lại cẩn thận xem xét, thầm hồi tưởng… Người trẻ tuổi này là Vương Hi, cùng tuổi với Ngao Thịnh. Khi Ngao Thịnh còn là thái tử, cha hắn cũng chính là Vương thái thú rất có mắt nhìn người nên đã giúp Ngao Thịnh không ít. Vương Hi và Ngao Thịnh cũng có thể xem như là bạn.
Ba năm không gặp, Vương Hi đã trưởng thành, không còn tính trẻ con nữa, thay vào đó là có được vẻ uy vũ của một đại tướng quân, Tương Thanh đột nhiên có chút thất thần… Không biết Ngao Thịnh trưởng thành rồi sẽ trông thế nào, có phải đã cao hơn y rồi không…Trước kia vẫn chỉ mới là một tiểu hài nhi mười mấy tuổi đầu thôi.
“Thanh phu tử, Hoàng thượng bảo ta đưa cho huynh vật này.” Vương Hi trao hộp gỗ trên tay cho Tương Thanh: “Ta hạ trại gần đây, huynh nếu tiện đường thì cứ đến chơi, có một số việc ta cũng muốn xin chủ ý của huynh.” Nói xong liền cáo từ dẫn binh đi.
Tương Thanh ngẩn ra nhìn hộp gỗ, không nặng cũng không nhẹ, chẳng biết Ngao Thịnh lại giở trò quỷ gì. Đợi đến khi y mở nắp hộp ra nhìn, chỉ thấy có vài thứ tròn vo — bánh lão bà…
Tương Thanh nhanh chóng đóng nắp hộp, lại tốn hơi thừa lời mắng,
tiểu tử chết tiệt!