Chương 2: Phong Ba khách điếm

Duyên thành là một thị trấn trọng yếu ở phía bắc, đồng thời cũng là đầu mối thông thương then chốt giữa Tây Vực và Trung Nguyên, tương tự như những thành trấn ở vùng biên cương, mang nét đặc trưng của cả hai vùng Tây Trung. Dân cư Duyên thành có cả người Trung Nguyên và dị tộc, nhiều nhất là người Hồ vùng Tây Vực, chiếm đa số vẫn là dân tộc Khương và Đột Quyết.

Phong Ba khách điếm, một khách điếm bình thường tọa trên đường cái Duyên thành, không quá xa hoa đắt đỏ, bên trong đa số đều là những thương nhân dừng chân ghé lại. Chủ quán là đôi phu phụ, ngườichồng thì trung thực còn ả vợ lại lả lơi, chua ngoa, vô cùng tương phản.

Giờ cơm giữa trưa, trong điếm ồn ả tiếng người, lớn giọng nhất là tiếng tiểu nhị í ới gọi món, nghe ra mùi thô lỗ của cường đạo Tây Bắc.

Mụ chủ thường buông lơi uống rượu cùng khách quan, cổ áo thì khoét sâu khoét rộng để lộ ra phần ngực trắng mịn. Mụ luôn đứng ở cửa, phất phơ tay áo lấy gió, hai má cứ hồng mọng lên. Khách khứa tới lui ngả ngớn bỡn cợt mụ, còn mụ lại cứ giả vờ đoan trang nũng nịu, nhảy dựng lên mà mắng vài tiếng. Nhưng làm thế chỉ tổ tăng thêm hứng thú của bọn khách hạ lưu. Ông chồng thì lại bình tĩnh đứng nhìn, đôi lúc cười cườt qua chuyện, coi như không nghe, không thấy và không biết.

Mụ đứng phẩy tay áo, vừa định xoay người vào trong thì thấy một người cưỡi ngựa tấp vào đứng dưới hiên. Tuy không trông rõ mặt mũi người ta thế nào nhưng vẫn theo quán tính mà chèo kéo: “Ái chà, khách quý khách quý, mời vào bên trong, dừng chân hay nghỉ trọ a?”

Người xuống ngựa là một nam tử còn trẻ tuổi, choàng một chiếc khăn trắng che hơn nửa mặt, chỉ để hé ra đôi mắt đen trong đến lạ. Nam tử nhìn thoáng qua mụ ta, tháo tay nải xuống, đáp ngắn gọn: “Nghỉ trọ.”

“Được, được, xin mời vào trong a.” Người làm ăn thường có mắt nhìn người rất tốt. Người trẻ tuổi này dùng khăn che mặt, một là vì quá xấu không dám cho người ta thấy, hai là không muốn để lộ chân tướng. Mụ chủ cười đon đả đưa khách vào trong, mời vào chiếc bàn sạch sẽ, cho khách nhân ngồi quay lưng ra phía ngoài, như vậy sẽ không ai có thể nhìn thấy bộ dáng của y.

Y chỉ gật đầu, buông lời: “Cảm tạ.”

“Khách quan muốn ăn gì a?” Mụ cười hỏi: “Trong tiệm có thịt bò mới chuyển đến, cậu muốn dùng thử một chén mì thịt bò không? Còn có bánh bao thịt nóng hổi thơm ngon!”

Y đưa túi nước sang cho mụ, từ tốn đáp lời: “Một bát mì thịt bò, gói thêm năm cái bánh bao cùng một ít thịt khô, à, làm phiền đong cho tôi một túi rượu.”

“Có ngay.” Mụ lại ha ha cười, tiếp túi nước từ tay y, rồi xoay người đi về phía nhà bếp, vừa đi vừa hét: “Một bát mì thịt bò đặc biệt!”

Rất nhanh, tiểu nhị đã mang bát mì thịt bò ra, đặt lên bàn cho y: “Khách quan, dùng chậm rãi!”

Y gật đầu, đưa tay kéo khăn lụa trắng, mặc nó buông rũ trước ngực.

Chốc lát sau, mụ chủ mang bánh bao, thịt khô, thêm cả một bầu rượu ra. Từ xa đã nhìn thấy khăn trắng buông rũ nên mụ có chút tò mò, thầm nghĩ không biết nam nhân này có bộ dạng thế nào.

“Khách quan, những thứ ngài cần đây.” Mụ chủ đặt mọi thứ lên bàn, y chỉ thoáng gật đầu, tiếp tục cúi mặt ăn mì.

Mụ tăm tia y rồi thầm nghĩ, tiểu tử này diện mạo thật tuấn tú, mặt mày trắng trẻo, sạch sẽ, thanh thanh sảng sảng, không thô kệch cũng chẳng quá mức sắc sảo, thật là một mỹ nam tử, hơn nữa tuổi còn trẻ, nhắm chừng cũng chỉ hơn đôi mươi một tí.

“Tiểu huynh đệ, cậu gọi những thứ này…không phải là muốn vào sa mạc chứ?” Mụ hỏi.

Người nọ nhẹ gật đầu, tiếp tục ăn.

Mụ lại nhìn những tên đàn ông trong tiệm, rặt một lũ khi ăn mì mà nhìn cứ như trư ăn, làm vung vãi hết cả ra bàn, rơi luôn xuống đất, nói chuyện thì giọng ồm ồm, thô lỗ chết được. Trong khi vị công tử này lại nhã nhặn, tư thế cầm đũa rất đẹp, mụ thích, tay nắm đũa hơi cao, móng tay cắt tỉa gọn gàng, bàn tay thon dài, đầy đặn, nói chung là…đẹp.

Đương lúc mụ đang mải miết ngắm nhìn thì chợt nghe thấy tiếng ai đó hét to: “Ông chủ, ta nói, bà vợ ông cứ nhìn ngắm tên mặt trắng kia mà chảy cả nước dãi, ông cứ thế mặc kệ chẳng quản sao?”

Theo sau, là một trận cười khả ố vang lên, ông chủ cũng ngẩng đầu lên nhìn, còn mụ lại đỏ mặt mắng: “Mấy người muốn chết hả, toàn ăn nói lung tung, ăn nhiều như vậy mà cũng không làm các người nghẹn chết à?!”

Mụ càng tức giận thì những người chung quanh càng khoái chí.

“Bà chủ à, bà năm nay cũng đã ba mươi…Nữ nhân ba mươi như mãnh hổ, tên thư sinh này sao chịu được, đừng dọa người ta nha!”

“Ha ha…”

“Câm ngay đi!” Mụ chủ nhấc chân đạp cho đại hán vừa nói một cước: “Cái miệng phía trên của lão không phải là dùng để ăn cơm sao, cớ gì nói chuyện bốc mùi quá!”

Bên này vừa đánh vừa mắng, giọng của mụ chủ một tiếng cao một tiếng thấp, nhưng mọi người lại chỉ lưu ý người trẻ tuổi kia, y vẫn bình tĩnh, mặt không chút biểu cảm, cúi đầu chậm rãi ăn mì. Một khắc sau, mì vơi dần, y bưng bát lên uống một ngụm canh rồi lại nhã nhặn đặt xuống, bỏ vài phân bạc vụn lên bàn, cầm lấy tay nải, thuận tiện kéo khăn che mặt.

“Khách quan ăn xong rồi à?” Mụ chủ hỏi, thấy y như muốn chuẩn bị lên đường.

Y lại gật đầu, thấp giọng nói: “Mì rất ngon.” Nói xong xoay người bỏ đi.

Mụ ở phía sau lớn tiếng cười chào: “Có thời gian lại đến a!”

Y không đáp lời, một đường đi thẳng ra ngoài, hành động đó khiến những người trong điếm có chút phật ý. Mọi người ra đường bôn ba, ít nhiều gì cũng nên mở lòng với người khác, người này tuổi còn trẻ mà không biết cách hành xử tí nào!

Gần cửa ra vào có hai tên áp tiêu ngồi, thấy y đi qua, đưa chân ra nhằm ngáng chân làm y ngã, nhưng đến khi y đã ra khỏi khách điếm rồi mà chúng vẫn chẳng cảm giác có gì xảy ra…đành thu chân về, buồn bực hỏi —— hắn bước ra khi nào mà mình không biết?

Một vài vị khách trong điếm lại thấy rất rõ, khi người nam nhân này đi ra cửa, lúc sắp bước ngang qua chân của hai tên kia, cước bộ không đổi nhưng hai chân đã lăng không, rời đi mà chẳng hề chạm đất. Một chiêu thức tuy nhẹ nhàng nhưng lại vô cùng khó, phải là người có nội lực cao mới có thể thi triển. Mọi người trong lòng hiểu rõ….Vị công tử này võ nghệ không phải hạng xoàng.

Y đi tới nơi cột ngựa, vừa định nhảy lên thì có hàng loạt tiếng bước chân rầm rầm rộ rộ từ ngã tư truyền đến. Sau đó, hai đoàn ngựa thồ cùng hai đội bộ binh tiến vào, trong nháy mắt đã bao vây cả khách điếm.

Ở vùng Tây Bắc xa xôi này, kẻ giang hồ nào mà lại không mang trên lưng vài mạng người, khi nhìn quan binh vây lấy toàn bộ khách điếm, ai cũng tưởng họ đang hướng về mình, đều rút đao rút kiếm thủ thế….Nhưng đợi nửa ngày, lại không thấy quan binh tiến vào.

Kế tiếp, chỉ thấy dẫn đầu binh đoàn là một người vận quan phục thống lĩnh xoay lưng xuống ngựa, đi đến trước mặt người kia, đoạn lại quỳ một chân xuống: “Thuộc hạ tham kiến Thanh phu tử, Thịnh thiếu gia muốn mời Thanh phu tử quay về kinh thành.”

Người nọ không ngừng cước bộ, thản nhiên thốt ra một câu: “Quan gia nhìn nhầm người rồi.” đoạn lại nắm dây cương rời đi.

Vị thống lĩnh kia cũng không lùi bước, đi theo sau cố thuyết phục: “Thanh phu tử, thuộc hạ đã xem qua hình của ngài trên cáo thị, không chỉ riêng Duyên thành, mà còn tất cả quan viên Tây Bắc cũng đều nhận được cáo thị, Thanh phu tử, ngài nên quay về vẫn hơn!”

“Tránh ra.” Y khẽ nhíu mày: “Chắc ông biết, ta lỡ tay gϊếŧ ông thì chẳng phải đền mạng, còn ông sơ suất làm ta bị thương thì sẽ phải tự biến mình thành tội phạm, tịch biên gia sản?”

Lời vừa dứt thì vị thống lĩnh liền đứng lại, có chút khó xử, kiễng chân quỳ xuống: “Cung tiễn Thanh phu tử.”

Y không để ý tới, lên ngựa thúc cương rời đi.

Trong khách điếm, mọi người hai mặt nhìn nhau, mụ chủ cùng chồng mụ cũng trợn tròn mắt nhìn người kia, đoạn lại liếc mắt ra cửa. Vị thống lĩnh này họ Phùng, là tướng quân phòng giữ Duyên thành, bình thường hắn rất ngạo mạn, thường diễu võ giương oai, không may đi đâu gặp hắn thì chỉ có thể trách mệnh mình không tốt.

“Phùng thống lĩnh, vị tiểu ca ca kia là ai thế?” Mụ chủ tò mò đến gần hỏi han.

Phùng thống lĩnh trừng mắt nhìn mụ: “Ít lắm điều đi, đúng rồi, người ấy lúc nãy đã ăn gì?”

Mụ nhún vai đáp: “Một bát mì.”

“Bát đâu?” Phùng thống lĩnh hỏi.

“Sao cơ?” Mụ trưng ra vẻ mặt khó hiểu.

“Bát mì người ấy vừa ăn đâu rồi?” Phùng thống lĩnh phất tay ra lệnh: “Đem đến cho ta!”

Mụ lấy từ trên khay bát mì có vành màu lam, vẫn còn sót lại chút nước dùng, mang lên cho Phùng thống lĩnh: “Y ăn một bát mì thịt bò.”

“Bao nhiêu tiền?” Phùng thống lĩnh hỏi tiếp.

“Một…. Một, à hai phân bạc, thêm cả mấy cái bánh bao, thịt khô, một bầu rượu.” Mụ sợ hãi đem bạc dâng lên cho Phùng thống lĩnh.

Phùng thống lĩnh vẫy tay gọi thuộc hạ. Một người tiến đến mang theo một hộp gỗ, Phùng thống lĩnh đổ phần nước dùng trong bát đi, lấy khăn lau khô rồi lại bỏ cả bát lẫn đũa vào trong hộp gỗ, khóa lại cẩn thận, thuộc hạ kia tiếp nhận, xoay người phóng lên ngựa, thúc roi chạy đi. Phùng thống lĩnh lấy ra năm lượng bạc ném cho mụ chủ: “Sau này nếu người ấy lại đến ăn, chẳng những không được thu bạc, mà còn phải mang những món ngon nhất ra tiếp đãi, ngân lượng cứ đến chỗ ta mà lấy, cái bát đó, ta mua!” Nói xong, liền ra lệnh cho binh sĩ lên ngựa hồi phủ.

Mụ ngơ ngốc cầm ngân lượng đứng tại chỗ, xoay mặt nhìn tướng công nhà mình: “Ông ơi, chuyện này là thế nào?”

Ông chồng vẫn như cũ, bình tĩnh gảy bàn tính, buông ra một câu: “Đúng là đàn bà, hỏi ít thôi, không phải có bạc là được rồi sao, làm việc đi.”

Mụ bĩu môi, lắc lư xoay người vào điếm, nhưng đám khách vẫn tiếp tục đàm luận chuyện vừa xảy ra, tò mò không biết thân phận của người đó là thế nào.

Y là ai?

Đương nhiên chính là Tương Thanh.

Từ sau khi rời khỏi kinh thành, Tương Thanh không có nơi để đi, Giang Nam là Thất Tinh Thủy Trại, Thục Trung là Hắc Vân Bảo, Mạc Bắc là Tu La Bảo…Đều là bằng hữu, y không thể ngu ngốc đến đó để làm liên lụy họ, dù sao những người ấy đều phải trải qua bao sóng gió mới đổi được những ngày bình an. Không có nơi đến, Tương Thanh đành phải lang bạt khắp Tây Bắc và Trung Bắc, nhưng việc khiến y không lường trước được là con sói Ngao Thịnh kia lại thông tri khắp tất cả tỉnh thành, chỉ cần thấy y thì như thấy Thái Thượng Hoàng, ăn cơm, ở trọ không cần trả tiền, lâu lâu lại có quan nha địa phương chạy đến trước mặt, nói với y, Ngao Thịnh muốn gặp y, mời y quay lại kinh thành…Nơi nào y cũng có thể đến, chỉ trừ kinh thành.

Cho ngựa chạy đến khi chạng vạng, Tương Thanh cũng đến được biên giới đại mạc, lúc này, thái dương đã chậm rãi khuất mình sau đường chân trời.

Tương Thanh xuống ngựa, ở đây bốn phía không một bóng người, xung quanh chỉ có vài gốc đại thụ cháy khô. Y cột ngựa vào cây, gom củi nhóm lửa, uống rượu trong túi, ngắm nhìn mặt trời lặn chốn đại mạc…Ngoại trừ đôi chút tịch mịch thì xem chừng mọi thứ cũng không tệ lắm.

Cách đó mấy ngàn dặm, trong hoàng thành, Ngao Thịnh mặc long bào, ngồi trên bàn đá trong hậu viện, dùng một chiếc bát có vành màu lam, cùng đôi đũa gỗ ăn mì thịt bò, vừa ăn vừa ngẩng đầu nhìn trăng treo trên bầu trời, tay kia nắm một vài phân bạc vụn.

Thái giám đứng một bên, có chút bất đắc dĩ nhìn hoàng đế ăn mì.

“Khụt khà khụt khịt” ăn xong bát mì, Ngao Thịnh buông đũa xuống, trầm mặc thật lâu sau mới nói: “Thanh không thích ăn tiêu.”

Ba ngày sau, quan phủ vùng Tây Bắc đưa ra một lệnh cấm hết sức vớ vẩn: “Tất cả tửu quán, khách điếm ở Tây Bắc khi nấu mì thịt bò đều không được bỏ tiêu vào.”