Đúng vào tiết thu phân ba năm sau, cũng chính là dịp sinh nhật lần thứ mười hai của Triệu Quan. Cậu vẫn còn là một đứa trẻ, từ bé có biết cái gì là sinh nhật đâu, bỗng Lưu Thất Nương gọi cậu tới và bảo: “Quan nhi, hôm nay con đã qua tuổi mười hai rồi. Ăn cơm chiều xong thì đến phòng mẹ, mẹ có chuyện quan trọng muốn nói.”
Đợi đến tối, Triệu Quan đến phòng mẫu thân, thấy bà đang ngồi ngay ngắn trên ghế, thần thái nghiêm túc. Ba người Thanh Trúc, Lạc Anh, Tú Liên đứng sau lưng, nha hoàn Đinh Hương xuôi tay đứng cạnh.
Triệu Quan hơi ngẩn ra, cất tiếng gọi: “Mẹ!” Trong lòng thầm nhủ: “Ba vị tỉ tỉ đều là danh đán trong quán, rất ít khi rảnh rỗi gặp nhau, hôm nay lại tụ tập ở đây, nhất định mẹ có việc quan trọng.”
Cậu ngẩng đầu nhìn Thanh Trúc thấy trong đôi mắt phượng của nàng ta lấp loáng nét cười, tự nhủ: “Chắc là việc tốt.” Lại thấy trang phục của Lạc Anh như thể sắp ra ngoài dự yến, liên tục vuốt ve cái kẹp tóc hình chim phượng đang giang cánh, đến tận lúc Lưu Thất Nương mở miệng mới ngừng lại.
Lạc Anh có khuôn mặt tròn vành vạnh, mày cong mắt nhỏ, cằm đầy đặn, trông mười phần phúc hậu, lại cao quý. Tú Liên lại mang dáng vẻ đặc trưng của một nương tử đất Tô Châu, khuôn mặt trắng muốt như ngọc, mắt hạnh má đào, thân hình mảnh mai, phong vận rất đỗi dễ thương. Vẻ ngoài của ba vị cô nương đều đầy mê lực, không phải Triệu Quan đã từng thấy họ xuất thủ thì tuyệt đối không thể tin rằng bọn họ có một thân võ công, thiện nghệ độc thuật, thủ đoạn ngoan lạt.
Lưu Thất Nương chậm rãi bảo: “Quan nhi, hôm nay con đã qua tuổi mười hai rồi, mẹ có một chuyện quan trọng muốn cho con biết. Con mau quỳ xuống nghe.”
Triệu Quan quỳ xuống trước mặt bà: “Xin mẹ nói đi.”
Lưu Thất Nương im lặng một hồi rồi mới lên tiếng: “Ba năm qua, con đã nhiều lần theo các vị tỉ tỉ ra tay thực hiện nhiệm vụ, cũng giúp đỡ được nhiều, con cũng biết chúng ta không đơn thuần là một kỹ viện. Trước đây ta chưa cho con biết tường tận sự tình chỉ vì con không phải là đệ tử Bách Hoa môn, không được phép biết đến nội tình và võ công độc thuật của bản môn. Theo quy củ của Bách Hoa môn phải qua tuổi mười hai mới có thể chính thức trở thành môn hạ đệ tử. Hiện giờ con đã đủ tuổi, môn phái chúng ta tuy có quy định không thu nam đệ tử song con cái thân sinh của đường chủ lại là ngoại lệ. Bản tọa là đường chủ Hỏa Hạc đường trong Bách Hoa môn, hôm nay thu con làm môn hạ đệ tử. Triệu Quan, con suy nghĩ cho kỹ rồi trả lời ta, con có nguyện ý gia nhập Bách Hoa môn không?”
Triệu Quan đợi ngày này đã lâu lắm rồi, nghe mẫu thân nói xong thấy trong lòng bừng bừng, lập tức đáp ngay: “Con đồng ý!”
Lưu Thất Nương gật gù đoạn nói: “Hay lắm! Bây giờ ta hướng dẫn con nhập môn.”
Bà phất tay ra hiệu, Đinh Hương bèn bày biện lò án lên chiếc bàn ở phía đông, đặt các vật dụng cần thiết lên tấm khăn trải trắng như tuyết. Triệu Quan thấy hai ngọn nến trắng được thắp sáng, Đinh Hương lại treo một cuộn tranh lên phía sau án, tranh vẽ vô số đóa hoa rải đầy mặt đất, hình thái mỗi đóa không giống nhau, nét vẽ cực kỳ tinh xảo. Triệu Quan ngắm nghía kỹ càng, nhìn ra mười loại hoa, đa phần cậu đều biết tên.
Lưu Thất Nương nói: “Bức tranh này vẽ thủy tổ Bách Hoa bà bà của Bách Hoa môn chúng ta, cùng là sư phụ của bản tọa. Lão nhân gia không muốn bộc lộ chân diện mục nên mới lấy một trăm đóa hoa thay thế cho khuôn mặt.” Triệu Quan gật gù.
Lưu Thất Nương bảo Triệu Quan quỳ xuống trước án, bà cũng quỳ xuống bên cạnh, những người còn lại quỳ xuống sau lưng bà. Lưu Thất Nương lạy bức Bách Hoa đồ ba lạy, Triệu Quan và những người khác lạy theo.
Lưu Thất Nương đứng dậy đến trước án, thắp một nén hương rồi lại quỳ xuống vị trí cũ, nói: “Quan nhi, con nói theo ta. Đệ tử là Triệu Quan, được đệ tử đời thứ hai của Bách Hoa môn là Cơ Hỏa Hạc tiếp dẫn, thừa phụng ý nguyện của Bách Hoa bà bà, trở thành đệ tử đời thứ ba của Bách Hoa môn. Đệ tử xin thề cả đời này phục tùng môn quy, nghe lệnh của các trưởng bối trong môn phái, không được trái lời. Xin thề.”
Triệu Quan nhắc lại từng câu từng chữ, Lưu Thất Nương bảo cậu bái lạy Bách Hoa đồ ba lần rồi đốt ba nén hương. Sau đó Thanh Trúc cũng bước lên quỳ xuống nói: “Đệ tử Thanh Trúc, chứng kiến cho lời thề nhập môn của đệ tử đời thứ ba Triệu Quan, ngày sau sẽ tận lực giúp đỡ cho Triệu sư đệ, vĩnh viễn tuân theo di huấn của Bách Hoa bà bà, không phụ ân đức tiếp dẫn của Hỏa Hạc đường chủ.”
Lạc Anh, Tú Liên cũng lặp lại nghi thức chứng kiến.
Hành lễ xong xuôi, Lưu Thất Nương lấy từ trong ngực áo ra một chiếc thiết ấn nhỏ xíu, hơ lên ngọn nên trên bàn rồi bảo: “Quan nhi, đưa tay tả ra để ta đóng ấn ký của Bách Hoa môn cho con.”
Triệu Quan vén ống tay áo lên, thò tay ra mà lòng thầm hỏi: “Có đau không nhỉ?” Song thấy thần thái mọi người đều nghiêm túc nên không dám hỏi, đưa tay hữu đỡ lấy tay tả, ngưng vọng nhìn thiết ấn trong tay mẫu thân.
Lưu Thất Nương rải một lớp phấn lên trên ấn, hơ lên ngọn lửa rồi quay lại, một tay nắm lấy cổ tay Triệu Quan hướng lòng bàn tay cậu ngửa lên, tay kia cầm thiết ấn đóng nhẹ xuống chỗ gần cùi tay.
Triệu Quan thấy thiết ấn chạm vào da làm bốc lên một làn khói mong mỏng, không đau lắm thì lấy làm kỳ quái, trừng mắt nhìn vào thiết ấn. Lưu Thất Nương nhắm mắt lại, lẩm bẩm một đoạn chúc từ rồi bỏ ấn ra. Triệu Quan thấy trên da hiện lên một ấn ký màu trắng, to cỡ đồng tiền, hình thái nổi lên rất rõ.
Đinh Hương tiến tới gần, đắp một mảnh vải bố ướt lên chỗ vừa đóng ấn ký, lúc đó Triệu Quan mới thấy hơi đau. Cậu ngẩng lên thấy Đinh Hương đang cười với mình bèn đáp lại bằng một nụ cười.
Lưu Thất Nương nói: “Đó là ký hiệu của Bách Hoa môn. Môn nhân Bách Hoa môn khi gia nhập đều phải đóng ấn ký này. Sau này con muốn nhận biết môn nhân Bách Hoa môn cứ lấy ấn ký làm chuẩn. Loại ấn này chỉ có ba cái trên đời do đại sư tỉ Tiêu Bách Hợp, chưởng môn sư tỉ Bạch Thủy Tiên và ta chấp chưởng, vết đóng ấn ký khác hẳn với vết thương do bị bỏng, rất dễ phân biệt.”
Triệu Quan gật gù. Cậu biết thông thường khi bị bỏng, làn da nhất định sẽ phồng rộp đỏ lừ, tay mình lại nổi lên một dấu ấn màu trắng, đắp lớp vải bố ướt vào thì mát lạnh, đích xác là không giống với vết thương do bị bỏng.
Lưu Thất Nương lại nói: “Đại đa số đệ tử trong Hỏa hạc đường lưu ngụ tại thanh lâu, ấn ký không ở trên tay mà trên vai hoặc chỗ khác. Trúc nhi, Anh nhi, Liên nhi, cho Quan nhi xem ấn ký của các con.”
Thanh Trúc kéo cổ áo xuống, để lộ ra ấn ký Bách Hoa môn trên vai tả, ấn ký của Lạc Anh trên vai hữu, của Tú Liên lại ở dưới sườn. Các cô nương trong Tình Phong Quán đều coi Triệu Quan là trẻ con nên không cố kị gì trước mặt cậu. Triệu Quan thấy ba vị cô nương lộ trần thân thể, chỉ cảm thấy thinh thích, tự nhủ: “May quá, ấn ký của mình lại trên cánh tay, lúc để cho người ta xem không đến nỗi phải lột áo hay đai lưng.”
Lưu Thất Nương tiếp tục: “Các vị cô nương trong nhà đều là môn nhân Bách Hoa môn. Kiều Hà, Bảo Lăng, Nhất Chi, Thiến Bình, Đinh Hương cùng là đệ tử của ta. Ngày mai ta sẽ dẫn con đi gặp các vị tỉ tỉ, họ đều nhập môn trước, giờ không phải là người ngoài nữa, con phải xưng hô họ là sư tỉ.” Triệu Quan vâng lời.
Lưu Thất Nương cho phép ba vị cô nương quay lại tiếp khách hoặc về phòng nghỉ ngơi, chỉ giữ Triệu Quan lại, để cậu ngồi trên ghế đoạn nói: “Quan nhi, con đã nhiều lần hỏi về xuất thân của mẹ nhưng mẹ đều tránh không đáp. Giờ con đã là đệ tử Bách Hoa môn, mẹ sẽ kể tường tận cho con biết. Bách Hoa môn chúng ta được sáng lập từ năm mươi năm trước, người lập ra là Bách Hoa bà bà. Lúc đó bà bà có thu lưu một đám người khổ mệnh đáng thương, không nơi nương tựa, người thì từ nhỏ đã bị cha mẹ bán vào chốn xướng ca, người thì bị chồng ngược đãi, có người là nha hoàn thấp hèn bị chủ nhân hành hạ, lại có người là quả phụ cô khổ chốn quê mùa bị người ta khinh khi, ai ai cũng bi thảm, con không tưởng tượng được đâu. Bách Hoa bà bà cứu những cô nương đó, dạy họ võ công độc thuật, vốn có ý giúp họ có thể tự bảo vệ mình. Nhưng họ lại cảm kích ân đức của bà bà, tình nguyện đi theo phục thị lão nhân gia suốt đời, bà bà bèn giữ họ bên mình, thành lập Bách Hoa môn.”
“Bách Hoa bà bà là bậc tiền bối cao nhân tinh tuyệt võ công độc thuật. Lão nhân gia từng hạ sát một số nhân vật võ lâm nên có không ít cừu gia trên giang hồ. Từ khi thành lập Bách Hoa môn, nhiều đệ tử muốn báo đáp ân đức nên đã gϊếŧ chết cừu gia của bà bà, đã ra tay là thành công, chưa từng thất thủ. Vì thế mà thanh danh của Bách Hoa môn vang vọng, rất nhiều nhân vật giang hồ muốn ám sát kẻ khác lại mời Bách Hoa môn xuất thủ. Nhân sự của bản môn đều nằm trong vòng bí mật, những người trên giang hồ từng nghe đến Bách Hoa môn không nhiều, gặp qua người trong bản môn lại càng ít. Cũng bởi thế, giới hắc đạo vẫn đồn đại rằng Độc danh, Độc vụ, Bách tiên tửu là tam đại độc vật của bản môn. Độc vụ, Bách tiên tửu đều là độc vật cao minh của môn phái chúng ta, vô số nhân vật trong giang hồ đã táng mạng dưới hai loại độc này. Còn về Độc danh là ba đệ tử đắc ý nhất của Bách Hoa bà bà: đại sư tỉ tên gọi Tiêu Bách Hợp, tỷ ấy tụ tập một đám cướp ở Bắc Sơn, tự xưng Bắc Sơn đại vương, là bá chủ một phương; nhị sư tỉ tên gọi Bạch Thủy Tiên, võ nghệ độc thuật đều đạt mức tối cao, lúc bà bà già đã truyền y bát cho sư tỉ, vì thế Bạch sư tỉ chính là môn chủ bản môn. Người thứ ba là mẹ con.”
Bà thoáng dừng lại rồi tiếp tục câu chuyện: “Mẹ tên là Cơ Hỏa Hạc, lúc 6 tuổi bị cha mẹ bán vào chốn xướng ca, phải chịu đòn roi của bảo mẫu, 10 tuổi đã bị ép phải tiếp khách. Có một lần mẹ không chịu nổi đày đọa, chạy đến bờ sông toan nhảy xuống tự tận. Thật may là Bách Hoa bà bà đi ngang qua, cứu tính mệnh mẹ rồi đưa đến nơi lão nhân gia ẩn cư, dạy cho võ công độc thuật. Từ đó mẹ không rời khỏi bà bà, nguyện cả đời nghe theo lệnh của lão nhân gia. Lúc mẹ học nghệ đã thành, lão nhân gia nhận thấy nên cho đệ tử ẩn tàng vào chốn xướng ca, lấy đó làm phương tiện hành sự; mẹ vốn xuất thân xướng ca, nên vâng lệnh đến Tương Dương mở kỹ viện ẩn thân, thay bà bà ra tay ám sát không ít kẻ đối đầu. Ở Tương Dương được mười năm, do xung đột với những kẻ đối đầu của bản môn mà mẹ bị lộ hành tung, để tránh truy sát nên cùng thủ hạ thu vén toàn bộ chuyển đến Tô Châu mở Tình Phong Quán này. Thanh Trúc sư tỉ và Lạc Anh sư tỉ của con đều là đệ tử theo mẹ chạy từ Tương Dương sang. Các sư tỉ khác là những người mẹ thu nhận sau khi đến Tô Châu. Chúng ta thay tên đổi họ, ẩn tàng thân phận, không có gì khác với các kỹ viện khác, vì trốn tránh cừu gia, coi đây là phương tiện để ngầm ra tay trừ ác. Hôm nay con nhập môn, càng phải giữ bí mật, ngày thường không được đả động đến ba chữ Bách Hoa môn. Đã nhớ chưa?”
Triệu Quan gật đầu vâng lời. Cậu nghe chăm chú đến nhập thần, tuy quá nửa đêm rồi mà không thấy buồn ngủ tẹo nào. Lưu Thất Nương giảng giải về uyên nguyên, môn quy của Bách Hoa môn, cậu đều cung kính lĩnh hội. Đến tận canh tư, hai mẹ con mới về phòng nghỉ ngơi.
Triệu Quan nằm trên giường vuốt ve ấn ký trên cánh tay, nhớ đến mọi điều về Bách Hoa môn, mãi tới tảng sáng mới thϊếp đi.
Từ lúc đó, Lưu Thất Nương thường tự thân dạy Triệu Quan độc thuật bí truyền của Bách Hoa môn, từ xà độc, đảm độc, khoáng độc đến nuôi dưỡng các loại độc trùng như rết, bọ cạp, cóc, nhền nhện cho đến cách luyện độc, tất cả đều nhất nhất truyền thụ.
Triệu Quan không như các đệ tử khác phải học cách đánh đàn tỳ bà, ngâm thơ, hát xướng, vũ đạo cùng các kỹ nghệ chiều khách, cả ngày cậu vùi đầu vào học cách phối độc, hạ độc, tìm cách giải độc. Cậu lại thường xuyên được thấy mẫu thân cùng các vị sư tỉ ra tay hạ độc thành ra quen tai quen mắt, vô tình học độc thuật đến mức cực cao.
Lưu Thất Nương nghiêm khắc cảnh cáo cậu, nếu không phải lúc cực chẳng đã hoặc có lý do chính đáng, quyết không được phép sử dụng độc thuật, bất tuân sẽ xử tử theo môn quy. Triệu Quan đã biết sự lợi hại của độc thuật nên trừ lúc theo các sư tỉ xuất môn ra tay trừ ác, không dám tự tiện thi triển độc chất.
Triệu Quan cũng học được từ mẫu thân vài chiêu võ công thô thiển. Bách Hoa môn đều là nữ tử, chiêu thức có thiên hướng âm nhu hiểm trá, không thích hợp cho nam tử tập luyện. Do vậy, Lưu Thất Nương chỉ dạy nhi tử quyền cước nhập môn, ngõ hầu sau này tìm được cho cậu sư phụ thích hợp.
Mỗi khi có chuyện gì xảy ra bên ngoài, Lưu Thất Nương đều cho Triệu Quan tham dự, nghe ngóng, cậu cũng được theo Thanh Trúc, Tú Liên và Lạc Anh xuất môn giải quyết nhiệm vụ để tăng thêm kinh nghiệm, kiến thức.
Gia nhập Bách Hoa môn, càng học được nhiều, nhìn thấy nhiều, Triệu Quan càng cảm thấy mẫu thân và các cô nương ai ai cũng thâm tàng bất lộ, làm những việc hào hiệp nghĩa dũng một cách quỷ dị khó lường.
Suốt mười hai năm trước khi nhập môn cậu vẫn cho rằng mình sống trong một kỹ viện bình thường, gia nhập rồi như được tỉnh mộng, bước chân vào một thế giới hoàn toàn khác, đầy rẫy độc thuật ảo diệu, kỳ quái cùng những mật mưu không thể cho người ta biết. Những thứ đã biết đã thấy đều là giả, bây giờ mới thấy được bản lai diện mục của những người sống cạnh mình.
Nhập môn chưa bao lâu, Triệu Quan đã từ trẻ con chuyển sang giai đoạn thiếu niên.