Chương 18

“Trông cậu ta thật đẹp trai, ta chưa từng thấy một thằng nhóc nào anh tuấn như vậy.” Một phu nhân mập mạp nhỏ giọng lầm bầm: “Nghe nói vừa mới trở thành mục sư, lương mỗi năm 120 bảng Anh, trong nhà chỉ có một em gái.”

Một phu nhân cao gầy bên cạnh nhẹ phất quạt nói: “120 bảng Anh có hơi ít, nghe nói không được kế thừa đất đai, cũng không có di sản.”

“Cậu ta là họ Konstatin sao? Không nhẽ là Konstatin kia?”

“Đúng vậy, chính là Konstatin đó.” Một phụ nữ gầy nhom hất đầu nói, trong mắt tỏ vẻ khinh thường, bà ta là phu nhân nam tước Hale.

“Chà chà, nhìn hai anh em họ có vẻ đứng đắn, sao lại có một người chị không biết xấu hổ như thế? Theo đuổi đàn ông, mấy tiểu thư bình thường đã sớm xấu hổ và giận dữ chết đi được, mà còn vọng tưởng làm vợ người ta, thật là đũa mốc chòi mâm son.” Phu nhân mập mạp nịnh nọt nói.

Phu nhân nam tước lấy quạt che miệng, hạ giọng nói: “Không phải sao? Hơn nữa lại còn là con riêng, được sinh ra khi mẹ cô ta vẫn còn là tình nhân.”

“Chúa ơi!” Phu nhân mập mạp kinh ngạc hô.

“Mẹ của hai anh em mục sư là con gái nam tước, mang dòng máu quý tộc, không thể đánh đồng với một đứa con riêng dơ bẩn.” Phu nhân nam tước ngạo mạn nói: “Gia đình tôi không để ý đồ cưới nhiều hay ít, không có trở ngại gì là được, nhưng thân phận phải rõ ràng, mấy cô nàng hạ lưu sao có thể xứng làm nam tước phu nhân.”

Vũ hội diễn ra thuận lợi, mãi đến 2 giờ đêm mới có người bắt đầu rời đi.

Đêm đó, nam tước nói với tôi rất nhiều về Ấn Độ, cuối cùng ông ta có chút do dự giải thích với tôi: “Ta đáng lẽ nên sớm mời cậu đến đây làm khách, nhưng ta với cha cậu gần đây có chút hiểu lầm.” Nam tước xấu hổ nói: “Người chị sinh ngoài giá thú kia của cậu có hơi…quá…”

“Vô liêm sỉ.” Tôi nói tiếp lời của nam tước.

Trong xã hội thượng lưu có quy định ngầm, phụ nữ phải rụt rè, thu mình, chỉ có thể đợi đàn ông đến theo đuổi. Cho dù có một vị thể hiện hảo cảm với mình, cũng chỉ được dùng ánh mắt hoặc phiến quạt để đáp trả, trăm ngàn lần không được biểu hiện quá rõ ràng, bằng không sẽ mang tiếng phóng đãng, sau này đừng mơ được gả vào nhà tốt, chẳng có quý tộc nào muốn cưới một phụ nữ mang danh hư hỏng vào nhà. Tôi lúc này bị hành động của Elizabeth làm cho vô cùng xấu hổ, tốt xấu gì cũng cùng mang dòng họ Konstatin, người không biết chuyện sẽ nghĩ chúng tôi là cùng một loại, điều làm tôi lo lắng nhất là thanh danh của Anna cũng bị xấu theo.

Nam tước khoát tay nói: “Nếu cô ta là một tiểu thư đứng đắn đàng hoàng, dựa vào quan hệ của ta và cha cậu, đồng thời địa vị hai nhà đều tương xứng, chuyện kết hôn này cũng không phải là không thể. Chỉ tiếc tiểu thư Elizabeth không biết

quy tắc, mù quáng theo đuổi con ta, vậy mà cha cậu lại làm một chuyện ta không hiểu nổi, viết cho ta một phong thư kịch liệt ủng hộ chuyện này.”

“Cha tôi thật quá nuông chiều

chị ấy, tôi thay mặt cha xin lỗi ngài.” Tôi đỏ mặt xấu hổ nói.

“Không phải lỗi ở cậu, cháu trai yêu quý của ta. Mấy năm nay Dean càng ngày càng quá đáng, thân phận chúng ta không phải thấp, ở ngoài nuôi tình nhân còn chưa nói, làm sao lại có thể cưới cả tình nhân vào nhà? Ông ấy còn nói sẽ cho chị cậu 3000 bảng Anh đồ cưới, chỉ cần con ta đáp ứng cưới con bé, thật là quá mơ hão, một đứa con riêng làm sao xứng đáng với thân phận phu nhân nam tước? Ông ấy có đưa nhiều đồ cưới tới đâu cũng không đáng để ta vứt bỏ thể diện.” Nam tước nói.

“Tôi đã cắt đứt quan hệ với cha mình, dắt em gái ra ngoài sống, đối với chuyện này, tôi vô cùng xấu hổ, xin ngài thứ lỗi.” Tôi xấu hổ nói.

“Cậu yên tâm, ta sẽ không đem sai lầm của cha cậu gán lên người cậu, chỉ mong ấy sớm tỉnh ngộ.” Nam tước vỗ vai tôi nói.

Sau khi vũ hội kết thúc, tôi đưa Anna đã buồn ngủ lên xe. John và Daisy bên nhau một đêm đã nảy sinh tình cảm, giữa hai người ngày càng thân mật, tôi chỉ biết bất đắc dĩ thở dài.

Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa ló dạng, Anna đã bắt đầu luyện đàn.

Trên cây tử đinh hương ngoài cửa sổ, ngàn vạn bông hoa đua nở, mùi hương theo gió len vào cửa sổ, lướt qua tấm màn trắng, màn được gió thổi, nhún nhảy như đứa trẻ hoạt bát bên cạnh dương cầm.

Anna đang đàn một điệu Waltz, con bé không có thiên phú nghệ thuật, Daisy đã cố gắng hết sức, nhưng Anna chỉ tiếp thu được rất ít, tôi phải công nhận cả hai anh em đối với nghệ thuật đều bất lực. Tôi là đàn ông, không cần biết đánh đàn ca hát, nhưng Anna muốn có danh tiếng phải dựa vào những thứ này, mới hy vọng có thể gả đi, huống chi dòng họ Konstatin đã bị Elizabeth làm xấu mặt, nên tôi phải tìm mọi cách để kiếm được nhiều tiền, hy vọng có thể cho con bé một phần đồ cưới dư dả.

Anna đàn xong một bài, mỉm cười nhìn tôi.

“Đàn rất hay.” Tôi dối lòng khen ngợi.

“Sáng mai chúng ta cùng nhau đến giáo đường đi, em làm giúp mấy nữ tu sĩ bên ấy một ít đồ, ngày mai đem qua đó.” Anna cười nói.

“Được thôi.” Tôi ngồi cạnh con bé nói: “Anh có việc quan trọng muốn nói với em.”

Anna thấy tôi nói việc quan trọng, liền lo lắng hỏi: “Có chuyện gì sao?”

“Anh xin đến Ấn Độ truyền giáo, sẽ đến đó hai năm.” Tôi nói.

Anna sắc mặt trắng nhợt, run run hỏi tôi: “Ấn Độ? Khi nào…”

“Ngày mai.” Tôi nói.

Con bé bối rối cúi đầu, mắt nhìn đàn dương cầm nói: “Tại sao lại…Ấn Độ xa như vậy…cách xa cả nửa địa cầu, còn phải băng qua đại dương bao la…”

“Anh chỉ đi hai năm, rất nhanh sẽ về, đến nơi anh sẽ viết thư cho em.” Tôi giải thích.

“Ở lại đây không được sao? Không nhẽ anh không tìm được việc, phải mạo hiểm đi xa?” Anna nôn nóng hỏi.

“Anh có nguyên nhân riêng, xin em lượng thứ cho quyết định này của anh.”

“Không, anh đừng đi, vừa nghĩ đến đại dương em đã vô cùng khϊếp sợ, em xin anh đừng đi, nếu muốn đi cũng phải đem em theo.” Anna nhỏ giọng khóc.

“Anh sẽ không sao, anh thề.” Tôi ôm con bé vào lòng nói.

Anna cứ thế ngồi khóc cạnh tôi suốt một buổi sáng, buổi chiều vẫn giúp tôi chuẩn bị hành lý.

Hôm sau, hai anh em tôi lưu luyến chia tay, lên xe ngựa rời khỏi nhà.



Tôi chưa bao giờ biết bản thân mình bị say sóng, suốt hai ngày liên tục nôn mửa, còn tưởng rằng sẽ ói đến chết, sau vài ngày tôi cũng quen dần, có thể lên boong tàu tản bộ. Trên biển dù trời trong xanh cũng có gió rất lớn, hải âu nương theo hướng gió, bay lượn

quanh thuyền.

Đây là một con thuyền buồm vô cùng lớn, nghe nói nặng hơn 1000 tấn, là chiếc thuyền lớn nhất hiện nay, trong khoang thuyền còn có trang bị đại pháo, để đề phòng hải tặc tấn công.

Trên boong tàu rất đông thủy thủ bận rộn qua lại, cánh tay họ rắn chắc, làn da ngăm đen, thân thể linh hoạt, liên tục leo lên leo xuống cột buồm cao vυ"t. Khi tôi đứng ở mép thuyền, bọn họ rất hay chạy đến, xin tôi chúc lành, nhiệt tình đến mức tôi mệt chịu không nổi.

Là một mục sư, trên thuyền trừ thuyền trưởng, tôi có thân phận cao nhất. Trên thuyền tôi gặp một vị thương nhân, tên Alvin Frank Đệ Tứ, hơn 30 tuổi, sống tại Ấn Độ, lần này đưa con về Anh đi học. Trong lúc tôi bị bệnh đã được anh ta giúp đỡ, vì lên đường gấp rút, tôi không kịp thuê người hầu, anh ta đã

sai

một hầu nam qua giúp tôi.

Alvin cũng là con thứ của địa chủ, không có quyền kế thừa, học hành cũng không giỏi, nên khi mười mấy tuổi đã cầm vài trăm bảng ra ngoài lang bạt, tuy bỏ đi thân phận quý tộc, nhưng lại thành một thương nhân tài ba.

Anh ta thấy tôi một mình lên đường vô cùng kinh ngạc, nhưng lại thán phục từ đáy lòng: “Biển cả là cái nôi tham vọng của đàn ông, mấy kẻ co đầu rút cổ trong đất liền, chưa bao giờ đối mặt biển lớn là kẻ nhu nhược. Đàn ông có gan như cậu rất hợp ý tôi, không thể tin cậu chỉ là một tu sĩ.”

Tôi kỳ thực không có cái gan lớn như vậy, tôi cũng rất sợ biển cả. Đại dương bao la mênh mông vô hạn, những ngày tháng lênh đênh trên biển đều vô cùng cô đơn tịch mịch, cái cô đơn đó có thể khiến con người ta phát điên, lại còn có thể bị sóng gió quật ngã bất cứ lúc nào, nói không chừng một lần rời bến vĩnh viễn cũng không quay lại được đất liền.

Tôi đi Ấn Độ nguyên nhân lớn nhất là muốn tìm Edward, tôi từng có thể giúp hắn tránh tai họa, nhưng lại vì sơ sót mà không để ý. Tuy rằng theo như ký ức kiếp trước, hắn sẽ bình an trở về, thậm chí giàu sang phú quý hơn, nhưng tôi muốn tự mình xác nhận hắn bình an vô sự, chỉ cần nhìn thấy hắn còn sống, tôi có thể an tâm, nếu không cả đời này tôi sẽ phải sống trong sự thống khổ tự trách, hối hận đến khi vào mồ.

Vì thế tôi nói với Alvin: “Kỳ thực tôi cũng vạn bất đắc dĩ, bằng không cũng chẳng dám đặt chân lên thuyền.”

“Không cần coi thường bản thân, ngài mục sư ạ, bất quá là người đi trước tôi có điều này nhắc nhở ngài.” Alvin chớp mắt nói: “Đợi lát nữa khi chúng ta neo lại Serbia, ngài đi mua một ít hàng hóa, vải vóc, rượu, dược phẩm đem lên thuyền, đợi đến khi tới Ấn Độ, số hàng này có thể bán được gấp ba.”

“Thật sao?” Tôi kinh ngạc nói.

“Có thể mang theo súng ống thì càng tốt, rất đáng giá, nhưng không cẩn thận sẽ bị bắt vì tội buôn lậu.” Alvin cười nói.

Tại Serbia Tây Ban Nha, đội tàu ngừng lại một đêm, tôi nghe theo lời Alvin, lấy 100 bảng trong số 150 bảng đem theo mua rượu và dược phẩm, tuy không nhiều lắm, nhưng cũng đầy kín phòng. Đến lúc lên đường, tôi chỉ có thể ngủ trong một góc nhỏ hẹp.

Cuộc sống trên biển vô cùng gian nan, trên thuyền chỉ có thuyền viên và thủy thủ, tôi với vài vị thương nhân coi như nói chuyện hợp nhau, thường tụ tập lại uống rượu đánh bài.

Thương nhân từ nước Anh đem hàng hóa đến khắp nơi trên thế giới, rồi lại đem hàng hóa trên thế giới về Anh, kiếm được rất nhiều lợi nhuận.

“Khi đó cha tôi thường sang phương Đông. Quốc gia lớn nhất ở đó là nhà Thanh, vô cùng giàu có, cha tôi nói ở đó dân cư đông đúc, đất đai phì nhiêu. Ông ấy thu

mua tơ lụa, đồ sứ và lá trà

của họ đem về Anh, mỗi chuyến kiếm hơn ngàn bảng, nhưng sau đó, hoàng đế bọn họ ra lệnh bế quan tỏa cảng, cũng đã

mười mấy năm nay, không thể giao dịch, quả thực rất đáng tiếc.” Một thương nhân nói.

“Hiện nay lợi nhuận cao nhất vẫn là buôn bán nô ɭệ da đen.” Một thương nhân khác nói: “Đem một người da đen đến Tân Thế Giới hoặc Úc Châu có thể bán được 5 bảng, bọn họ rất khỏe, có thể làm vô cùng tốt công việc ở mấy điền trang, đáng tiếc không cho buôn lậu.”

“Gần đây có nhiều người phản đối buôn bán người da đen, cho rằng việc đó vô đạo đức.” Tôi nói: “Tôi cũng nghĩ như vậy, mỗi người chúng ta trước mặt Chúa đều bình đẳng, người da đen cũng là người, tôi cho rằng không bao lâu nữa, buôn bán người da đen sẽ hoàn toàn bị cấm.”

“Ngài suy nghĩ quá đơn giản rồi thưa mục sư, mấy lão chủ điền trang ở Tân Thế Giới sẽ không tán đồng chuyện đó.”

“Tôi đã từng lên vài con thuyền buôn bán người da đen.” Alvin nói: “Bọn họ rất đáng thương, mấy tên buôn nô ɭệ không có việc gì cũng lấy roi đánh họ, nhiều khi còn đánh tới chết. Trên tàu thiếu thức ăn nước uống, đám bọn họ sẽ bị trói lại trong khoang thuyền tối như mực, không khí không lưu thông, vô cùng hôi thối, bọn họ không được ăn uống, ai chết liền bị vứt xác xuống biển, thậm chí còn có một bầy cá đi theo, trực chờ ăn những thi thể bị vứt xuống.”

“Chúa ơi, thật kinh khủng.” Tôi sợ hãi nói.

Một thương nhân khó ưa vẫn ngoan cố khinh thường quan điểm của chúng tôi, hắn nói: “Tôi không thể tán đồng quan điểm của các vị, bọn da đen không phải là người, bất quá giống như dã thú, trời sinh

lười biếng

vụng về, không có chúng ta mang chúng ra khỏi hoang dã, chúng chẳng khác nào bầy thú trong rừng.”

Thương nhân này nói chuyện quá khó nghe, bọn tôi không thèm để ý tới hắn, hắn càng cố ý nói.

“Bọn họ sống ở nơi khí hậu ấm áp, không có mùa đông, quanh năm cây cối xanh tươi, chỉ cần với tay là có cái để ăn. Không như cuộc sống ở phương Bắc, nếu khi ấm áp không cố gắng dự trữ thức ăn và củi lửa, mùa đông sẽ chết đói chết rét, cho nên sống ở nơi khí hậu ác liệt, con người sẽ trở nên chăm chỉ thông minh, sống ở nơi thoải mái, lại trở nên lười biếng ngu dốt.” Thương nhân nói.

Hắn đưa ra kết luận tựa hồ rất có lý, nhưng lại kết luận: “Còn một điểm khiến ta cảm thấy chúng chính là dã thú, đó là chuyện nam nữ rất tùy tiện, không biết xấu hổ. Đàn ông thỏa mãn xong liền bỏ đi, để phụ nữ một mình nuôi con, lớn lên cũng không biết cha mình là ai, như vậ cũng gọi là con người sao?”

Lý luận của hắn rất khó nghe, lại có người tán đồng gật đầu.

Tôi thở dài một tiếng nói: “Tôi không biết nên bình luận về hành vi hôm nay của chúng ta như thế nào, nhưng

tôi tin sẽ có một ngày, chúng ta vì những hành động hôm nay mà hối hận. Nếu Chúa đã ban cho người da đen một mảnh đất giàu có, thì chúng ta không có tư cách đoạt bảo vật của bọn họ, cũng không có tư cách bắt họ rời quê hương. Làm như vậy sẽ có hậu quả, nhưng hôm nay chúng ta nhìn chưa tới, nên mọi người mới có những hành vi đáng sợ, chỉ mong xong này không bị Chúa trừng phạt.”