Hà An nói vọng vào. Tôi thoáng chút ngạc nhiên khi Hà An đề cập đến ngôi miếu nhỏ, tôi thật sự không hiểu rõ ngọn nguồn là cớ làm sao mà Hà An lại quan tâm đến việc hương khói. Tôi nghĩ chỉ có một khả năng là chị Ma đã tác động gì đó nhưng thật tiếc là dạo này chẳng mơ thấy chị ấy. Có lẽ chị Ma thừa hiểu rằng nếu gặp thì tôi sẽ hỏi những gì nên tìm cách tránh mặt.
-Nhanh chân lên, sao lâu thế?
Hà An thúc giục nên tôi vội chạy ra ngoài hiên rồi lại chạy ngược vào nhà lấy tiền. Thấy tôi chuẩn bị gạt chân chống xe đạp dựng ở gốc cây bưởi thì Hà An nói:
-Từ đây ra đầu làng cũng gần, đi bộ cho dẻo chân.
-Cũng được.
Dường như dạo gần đây tôi nói “cũng được” hơi nhiều. Mỗi ngày trôi qua hay chính xác hơn là sau mỗi lần gặp Hà An, tôi có cảm tưởng là bản thân tôi lại khác chính tôi của ngày trước đó.
Tôi không muốn chạm mặt người làng nhiều nên đi theo lối nhỏ ven làng vì lối này rất vắng người. Ngay cả việc đi bộ cùng Hà An cũng khiến tôi bận tâm suy nghĩ. Tôi nên đi bên cạnh hay đi trước? Nếu sánh vai cùng với Hà An, tôi cảm nhận rõ một điều rằng bản thân tôi thiếu tự tin, có điều gì đó rất khó nói thành lời khiến tôi cảm thấy tay chân mình đều thừa thãi. Bởi vậy tôi quyết định sẽ đi trước Hà An độ hai bước chân. Từ cổng nhà ra đến con đường nhỏ chạy quanh làng cũng chỉ hơn trăm mét nhưng tôi thấy như dài đến cả cây số vì Hà An im lặng, ánh mắt lơ đễnh nhìn những bờ tre, bụi cỏ ven lối nhỏ. Tôi nghĩ mình nên nói gì đó để phá vỡ bầu không khí thiếu tự nhiên này nhưng đi với một đứa con gái chẳng lẽ lại nói về việc… thờ cúng!
-Đằng kia là chùa làng tớ. – Tôi có chút ngập ngừng, thiếu tự tin. – Chùa làng tớ có từ lâu đời rồi. Hồi xưa chùa làm từ gỗ mít, vách đắp đất, cũng có cả vách được ghép từ những tấm gỗ nữa.
Hà An nheo mắt nhìn theo hướng tôi chỉ.
-Hai ngọn cây cao v·út trơ trụi lá kia là hai cây bồ đề.
-Ừ! – Hà An ậm ừ. Tôi cảm thấy chủ đề chùa chiền có vẻ không hấp dẫn nên vắt óc suy nghĩ để nói sang chủ đề khác.
-Xa xa ở đằng kia, bạn nhìn thấy không? Chỗ ngọn núi cao cao ấy, có hai cái lô cốt từ thời Pháp thuộc. Theo như tớ đoán thì hai lô cốt phòng thủ này được xây từ khoảng những năm 1950 và nó nằm trong kế hoạch phòng thủ đồng bằng Bắc Bộ gọi là “phòng tuyến De Lattre De Tassigny”. Sở dĩ tên phòng tuyến lạ như vậy là vì nó lấy tên của vị chỉ huy chiến trường Đông Dương của Pháp ở giai đoạn này đấy.