Đôi bao tay này của nàng được đan bằng hàng trăm sợi bạch kim, tuy mềm mỏng, nhưng bảo đao lợi kiếm chẳng làm gì được. Hách Đại Thông nhìn thấy đôi bao tay bay trong không trung thì mặt hơi biến sắc. Hồi lão giao đấu với Tiểu Long Nữ ở cung Trùng Dương, nàng đã đeo đôi bao tay này mà bẻ gãy trường kiếm của lão, buộc lão chút nữa phải tự sát, bây giờ gặp lại nó, lão không khỏi xúc động tâm cảnh.
Dương Quá đón bắt đôi bao tay, lùi lại một bước, đeo ngay vào tay, bắt đầu sử dụng môn võ công đẹp mắt và kỳ diệu nhất trong võ công phái Cổ Mộ là “Mỹ nữ quyền pháp”. Lộ quyền pháp này chàng từng sử dụng vài chiêu hôm giúp Lục Vô Song cự địch, đánh lui mấy đệ tử Cái Bang truy đuổi. Mỗi chiêu quyền pháp bắt chước một mỹ nữ thời xưa, do nam tử sử dụng thì có lẽ không được thanh nhã cho lắm, nhưng Dương Quá khi luyện tập đã cải biên tư thế, tên gọi từng chiêu vẫn giữ nguyên, nhưng động tác tay chân thì đã được chàng biến từ ẻo lả ủy mị thành phiêu dật thanh thoát. Bởi vậy quần hùng bàng quan càng không thể biết gia số, chỉ thấy chàng lúc thì múa may uyển chuyển, lúc thì đứng sững nghiêm nghị, thần thái biến ảo cực kỳ kỳ dị.
Nên biết tâm trạng thần thái của nữ nhân thay đổi đã nhiều lại nhanh, mà các mỹ nữ lừng danh thời đại thì tính cách đều có điểm phi phàm, buồn vui cười khóc càng khó tiên liệu. Đem sự thay đổi khôn lường tâm trạng thần thái của mỹ nữ bao nhiêu đời vào trong võ công, rồi thêm vào độ phong tư mỹ lệ, dáng hình phiêu diêu của tiên nữ, thì kẻ phàm phu tục tử làm sao hiểu nổi?
Dương Quá sử chiêu “Hồng Ngọc kích cổ”, hai cánh tay thay nhau đánh nhanh, Đạt Nhĩ Ba giơ cây chử đỡ ngang. Dương Quá biến chiêu thành “Hồng Phất dạ bôn”, xuất kỳ bất ý chọc thẳng vào, Đạt Nhĩ Ba giơ cây chử chặn dọc. Dương Quá đột nhiên sử chiêu “Lục Châu trụy lâu”, nhào xuống đánh vào hạ bàn đối phương. Đạt Nhĩ Ba cả kinh, nghĩ thầm: “Chiêu pháp của đại sư huynh sao mà khó đoán đến thế?”, vội nhảy lên tránh tả chưởng của chàng chém xuống. Song chưởng của Dương Quá liên tiếp vỗ ra mấy lần, ấy là chiêu “Hán Cơ quy Hán”, tổng cộng vỗ liền mười tám cái.
Mỗi chiêu của chàng đều có lai lịch, Đạt Nhĩ Ba là Tạng tăng, làm sao hiểu nổi điển cố Trung Nguyên? Trong giây lát chỉ thấy Dương Quá bất chợt đánh trên cao, bất chợt đánh dưới thấp, bất chợt bên đông, bất chợt lên tây, khiến y chân tay luống cuống cả lên. Dương Quá đeo đôi bao tay, cứ luôn luôn thừa cơ sử các chiêu “Hồng Tuyến đạo hạp”, “Mộc Lan loan cung”, “Ban cơ phú thi”, “Thường Nga khấu dược” mà đoạt cây kim cương chử. Đạt Nhĩ Ba cứ phải kêu lên hoảng sợ. Quần hùng cả mừng, hò reo trợ uy.
Kim Luân pháp vương thấy đệ tử võ công hiển nhiên cao hơn gã thiếu niên, chỉ vì có ý hoảng sợ, mà liên tiếp bị đối phương tấn công trước, đến nỗi lâm vào thế quẫn bách, bèn gằn giọng quát:
– Mau sử Vô thượng đại lực chử pháp!
Đạt Nhĩ Ba đáp:
– Vâng!
Hai tay nắm chắc cây chử, y bắt đầu múa. Y dùng một tay múa cây chử, đã là thần lực kinh nhân, bây giờ dùng cả hai tay, thêm cả sức của eo lưng, tiếng gió ù ù do cây chử phát ra càng mạnh gấp bội. “Vô thượng đại lực chử pháp” không có gì biến hóa, chỉ gồm tám chiêu phạt ngang, tám chiêu chọc thẳng, tổng cộng hai lần tám mười sáu chiêu, nhưng mười sáu chiêu đó cứ sử đi sử lại, phạt ngang chọc thẳng, buộc Dương Quá phải tránh thật xa, đừng nói giao phong chính diện, ngay cả chử phong, chàng cũng không dám tiếp xúc.
Điểm Thương Ngư Ẩn sau khi bị gãy cái thiết tương, vẫn ấm ức không phục, lúc này thấy uy lực khủng khϊếp của “Vô thượng đại lực chử pháp” nghĩ bụng “Thiết tương pháp” của mình không thể có được chiêu số chí cương chí mãnh như vậy, thì bất giác cũng đã khâm phục.
Đấu một lát nữa, bảy tám cây nến hồng trong sảnh đã bị chử phong thổi tắt, Dương Quá chỉ dựa vào khinh công nhảy chỗ này luồn chỗ kia, tránh né, cốt sao không bị cây chử đánh trúng, làm gì còn khả năng phản kích?
Quần hùng Trung Nguyên thầm kinh sợ, lặng cả đi, đám võ sĩ Mông Cổ thì thích thú reo hò. Dương Quá bị cây chử dồn ép cứ liên tiếp thoái lui chẳng mấy chốc đã bị dồn vào một góc sảnh, rất muốn biến chiêu, nhưng không thể thi thố gì được. Lộ “Vô thượng đại lực chử pháp” này có mang ba phần điên khùng, Đạt Nhĩ Ba giờ đã phát cuồng, đã quên biến trước mặt là đại sư huynh tái sinh, chỉ thấy Dương Quá đã thu mình vào trong góc sảnh, không còn đường thoái lui, bèn quát lớn một tiếng:
– Ngươi chết này!
Cây chử đập vào, chỉ nghe “sầm” một tiếng to, bụi tung mù mịt, vôi gạch bay tung tóe, bức tường chỗ ấy đã bị phá thủng một mảng lớn. Bạn đang xem tại
Đọc Truyện – www.TruyệnFULL.vn
Dương Quá thoát cái thế ngàn cân treo sợi tóc bằng cách phi thân vọt qua đầu đối phương, vẫn không quên nhại câu tiếng Tạng:
– Ngươi chết này!
Cú vọt này là võ công trong “Cửu Âm chân kinh”. Hồi ở trong tòa cổ mộ với Tiểu Long Nữ, Dương Quá đã luyện theo di kinh mà Vương Trùng Dương khắc trên trần thạch thất, quyền cước kiếm thuật học được mấy thành, chỉ có nội công là không được ai chỉ dẫn, hai người luyện thì luyện, song không biết đúng hay sai, bây giờ lần đầu tiên gặp đại địch, đâu dám đem ra sử dụng? Không ngờ trong cơn nguy cấp, tự nhiên bật ra, nhờ vậy thoát chết.
Quần hùng biết rằng chiêu này nhất định Đạt Nhĩ Ba đắc thủ, Quách Tĩnh không để y vung cây chử hết mức, đã nhảy ra định tập kích vào sau lưng y, chợt thấy hồng bào chao động, Kim Luân pháp vương đã phát chưởng đánh tới. Quách Tĩnh thấy chưởng thế của đối phương quá thần tốc, vội sử chiêu “Kiến long tại điền” gạt ra. Song chưởng của hai người đυ.ng nhau, không hề phát ra tiếng động, nhưng thân hình đôi bên đều chao đảo. Quách Tĩnh lùi lại ba bước, Kim Luân pháp vương thì vẫn đứng nguyên tại chỗ. Lão ta công lực thâm hậu hơn hẳn Quách Tĩnh, song chưởng pháp võ kỹ thì lại không bằng chàng. Quách Tĩnh lùi lại giảm mãnh kình của kẻ địch, để khỏi thụ thương. Kim Luân pháp vương thì cực kỳ hiếu thắng, sau cú tiếp chiêu vừa rồi, cảm thấy ngực bị đau tức, phải đứng yên một chỗ. Cả hai cao thủ cỡ Quách Tĩnh lẫn Kim Luân pháp vương đều biết Dương Quá nhất định sẽ ngộ hiểm, nên một người phi thân ra cứu, một người thì xuất thủ ngăn cản. Nào ngờ cuối cùng Dương Quá đã có kỳ chiêu, vọt ra khỏi kẽ hở đánh tới của cây chử. Hai người thấy Dương Quá thoát hiểm, thì một người vui mừng, một người tiếc nuối, cùng trở về chỗ cũ.
Đạt Nhĩ Ba ra đòn không trúng, cũng chẳng quay người lại, vung cây chử ra phía sau. Dương Quá thấy chiêu của địch tới quá nhanh, chàng tự nhiên bay ngang một cái, giống như chim én bay vụt qua mành vậy, thân hình lướt ngang cách mặt đất hơn một thước, ở bên dưới cây chử vài tấc. Lại là võ công trong “Cửu Âm chân kinh”. Hoàng Dung rất đỗi kinh ngạc nói:
– Tĩnh ca ca, tại sao Quá nhi cũng biết “Cửu Âm chân kinh”? Chàng có dạy cho nó không vậy?
Nàng cho rằng Quách Tĩnh vì nghĩ đến tình cố nhân mà trên đường dẫn Dương Quá lên núi Chung Nam đã đem “Cửu Âm chân kinh” dạy cho nó. Quách Tĩnh nói:
– Không hề, nếu truyền thụ cho nó, ta đã chẳng giấu nàng làm gì?
Hoàng Dung “ừm” một tiếng, biết tính phu quân vốn đối với người ngoài vẫn có sao nói vậy, đối với nàng càng không khi nào nói dối. Chỉ thấy Dương Quá bay người né tránh mỗi lúc nguy cấp, đúng là dựa vào công phu hộ thân của “Cửu Âm chân kinh”.
Nhưng chàng rõ ràng chưa luyện thành thục, không biết dùng võ công “Cửu Âm chân kinh” phản kích thủ thắng, tuy giữ được tính mạng, nhưng trận đấu này rốt cuộc chàng sẽ thua mất. Hoàng Dung thở dài:
“Quá nhi quả là bậc kỳ tài, nếu nó theo học mình chừng một năm, sẽ luyện xong Đả cẩu bổng pháp và Cửu Âm chân kinh, thì lão Tạng tăng kia đâu có địch nổi nó?”.
Chính đang phiền não, vừa đưa mắt, Hoàng Dung bỗng nhìn thấy gã phản đồ của Cái Bang là Bành trưởng lão đang đứng lẫn trong đám võ sĩ Mông Cổ có vẻ hí hửng, nàng chợt nảy ra một kế, gọi:
– Quá nhi, Di hồn đại pháp! Di hồn đại pháp!
Trong “Cửu Âm chân kinh” có một môn công phu gọi là “Di hồn đại pháp”, dùng sức mạnh tâm linh để khắc địch chế thắng. Lần trước tại đại hội Cái Bang bên hồ Động Đình, Hoàng Dung từng sử dụng công phu đó khắc chế “Nhϊếp tâm thuật” thôi miên của Bành trường lão, cho nên bây giờ trông thấy lão ta, nàng sực nhớ ra.
Dương Quá vẫn nhớ cách luyện “Di hồn đại pháp”, nhưng chàng chưa tin rằng dùng tâm lực chăm chú nhìn đối phương, lại có thể khắc địch chế thắng, bởi vì chàng chưa từng luyện qua. Chàng vốn phục tài năng của Hoàng Dung, nên nghĩ thầm: “Quách bá mẫu đã bảo thế, tất có duyên cớ, đằng nào thì hôm nay mình cũng thua, chi bằng cứ thử một phen”. Thế là trong lúc quyền cước tiếp tục tránh né, trong óc bắt đầu gạt bỏ mọi ý nghĩ, căn cứ cái gọi là “pháp môn chỉ quán” nói trong “Cửu Âm chân kinh”, đi từ “Chế tâm chỉ” đến “Thể chân chỉ”, tinh thần quy về một điểm duy nhất, hoàn toàn không còn tạp niệm. Lúc này chàng toàn dựa vào bản tính mà chống đỡ, nghe âm thanh, tiếng gió mà né tránh, nhãn quang trừng trừng nhìn kẻ địch.
Lại thêm vài chiêu, Đạt Nhĩ Ba thấy cử chỉ của Dương Quá lạ hẳn, bèn nhìn vào mắt chàng, cây kim cương chử đánh mạnh tới. Dương Quá sử chiêu “Man yêu hiên hiên” trong “Mỹ nữ quyền pháp” uốn éo eo lưng né tránh. Chàng đã vận “Di hồn đại pháp”, tâm thể là một, quyền cước đang sử chiêu số gì, thì trên mặt có thần tình tương ứng. Đạt Nhĩ Ba thấy mặt chàng bỗng hiện khí thư quyển, đâu biết rằng chàng đang bắt chước tư thế múa của Tiểu Man, là ái thϊếp của thi nhân Bạch Lạc Thiên đời Đường, bất giác ngây người, chọc thẳng cây chử. Dương Quá nghiêng đầu tránh, rồi sử chiêu “Lệ Hoa sơ trang” trong Mỹ nữ quyền pháp, giơ tay chải đầu một cái, các ngón tay mềm mại vuốt tóc, miệng mỉm cười. Trương Lệ Hoa là ái thϊếp của Lý Hậu chủ, tóc dài bảy thước, bóng mượt tới mức người khác có thể soi gương. Lý Hậu chủ vì mê mệt Lệ Hoa mà phế bỏ chính sự, đi đến mất nước, đủ hiểu sức quyến rũ thế nào. Dương Quá mỉm cười, Đạt Nhĩ Ba bị lây, cũng bắt chước mỉm cười. Nhưng Dương Quá mi thanh mục tú, thêm nụ cười càng quyến rũ, còn Đạt Nhĩ Ba thì lưỡng quyền nhô cao, hai má lõm sâu, bắt chước mỉm cười, chỉ khiến cho quần hùng đứng ngoài xem không khỏi sởn gai ốc.
Dương Quá thấy Đạt Nhĩ Ba ngây người, thì giơ ngón tay sử chiêu “Bình Cơ châm thân”. Đạt Nhĩ Ba nghiêng người né tránh, trên mặt bắt chước Dương Quá làm vẻ chăm chú khâu áo.
Hoàng Dung thấy Dương Quá lĩnh hội ý tứ của nàng, biết dùng “Di hồn đại pháp” làm cho kẻ địch bị cảm ứng, thì trong bụng cả mừng, nói nhỏ với Quách Tĩnh:
– Quá nhi thông tuệ lạ thường, hồi ca ca bằng tuổi nó bây giờ, ca ca đâu đã có được bản sự như nó.
Quách Tĩnh vui mừng gật gật đầu, mắt vẫn chăm chú theo dõi hai người ở giữa sảnh. Môn “Di hồn đại pháp” là sự cảm ứng bằng sức mạnh của tâm linh, nếu đối phương tâm thần ổn định vững vàng, thì môn này thường thường vô hiệu. Nếu đối phương có nội lực cao cường, phản kích trở lại, thì người thi triển môn này sẽ bị chế ngự. Hai bên tỷ võ, người nào võ công cao hơn, có thể dùng quyền cước, binh khí thủ thắng, thì không cần thi triển môn này. Kẻ công lực thua kém, cũng không dám sử dụng nó. Vì thế, môn này tuy cao thâm tinh diệu, song khi lâm địch ít khi được sử dụng.
Đạt Nhĩ Ba nghe Dương Quá nói tiếng Tạng, sớm đã tin tám, chín phần rằng chàng là đại sư huynh tái sinh ở kiếp này, vì trong lòng vốn có ý kính sợ, nên bị cảm ứng cực nhanh, Dương Quá vừa thi triển đã thành công. Nếu chàng đem thi triển với Hoắc Đô, nội lực chàng thua kém hắn, ắt sẽ gặp đại họa.
Lúc này Dương Quá đem Mỹ nữ quyền pháp ra thi triển, khi gót sen lãng đãng, lúc thướt tha liễu rủ, Đạt Nhĩ Ba cứ bắt chước y hệt, làm cho mọi người đứng xem vừa kinh ngạc, vừa tức cười.
Quách Phù cười ngặt cười nghẽo, nói với mẫu thân:
– Mẹ ơi, công phu này của Dương gia ca ca hay thật, sao mẹ không dạy cho hài nhi?
Hoàng Dung nói:
– Ngươi mà biết “Di hồn đại pháp” chắc sẽ làm cho trời long đất lở, rốt cuộc tự làm hại mình.
Nàng kéo tay con, nghiêm trang nói:
– Ngươi chớ có đùa, Dương gia ca ca chính đang giao đấu một mất một còn với lão Tạng tăng, môn này còn hung hiểm hơn cả giao đấu bằng đao kiếm đấy.
Quách Phù lè lưỡi, chăm chú nhìn Dương Quá, nghĩ thầm dầu sao cũng có khác gì trò đùa đâu kia chứ, thấy Dương Quá cười, thì Đạt Nhĩ Ba cũng cười, Dương Quá giận, thì Đạt Nhĩ Ba cũng giận, thế là nàng bắt chước làm theo. Ai ngờ “Di hồn đại pháp” cực kỳ lợi hại, mới học theo một lát, đầu óc đã mụ mẫm, tự dưng bước ra giữa sảnh.
Hoàng Dung cả kinh, vội giơ tay kéo lại. Lúc này tâm thần Quách Phù đã bị chế ngự, bèn đẩy mạnh mẹ ra. Hoàng Dung chộp cổ tay con, xoay lại, không cho Quách Phù nhìn thấy mặt Dương Quá. Quách Phù co kéo vài cái, mạch môn đã bị giữ chặt hết bề cựa quậy, đầu óc mụ đi, gục đầu vào lòng mẫu thân mà ngủ.
Lúc này Đạt Nhĩ Ba đã bị Dương Quá chế ngự hoàn toàn, thấy chàng sử chiêu “Tây Tử bổng tâm”, y lập tức sử theo chiêu “Đông Thi hiệu Tần”, thấy chàng sử chiêu “Lạc Thần vi bộ”, y cũng “bay như chim, trườn như rắn”, nhanh chậm tùy theo Dương Quá. Kim Luân pháp vương sớm đã nhận ra không ổn, luôn miệng quát gọi, song Đạt Nhĩ Ba coi như không nghe thấy. Dương Quá thấy thời cơ đã đến, đột nhiên sử chiêu “Tào Lệnh cát tỵ”, dùng hai tay luân phiên nhau chém xéo trên mặt mình, chém liên tiếp không ngừng. Thời xưa vợ của Tào Văn Thúc tên là Lệnh, sau khi chồng chết đã tự cắt mũi mình để biểu thị quyết ý không tái giá. Trong quyền pháp, chiêu này vốn dùng để ngăn chặn quyền chưởng của đối phương đánh vào mặt mình. Tay của Dương Quá cách mặt vài tấc, trông tưởng là chém vào mặt mình, xuất thủ cực mạnh, kỳ thực hai bàn tay chàng chỉ vuốt nhẹ qua má và mũi. Đạt Nhĩ Ba đâu có biết thế, hai tay cứ tự đánh vào mặt mình, y thần lực kinh nhân, mỗi chưởng đều có kình lực cả trăm cân, đánh hơn mười chưởng thì không chịu nổi nữa, y ngã xuống ngất lịm. Dương Quá lùi mấy bước, ngồi xuống bên cạnh Tiểu Long Nữ, tay phải chống cằm, tay trái giơ ra vẫy nhè nhẹ, thở dài, vẻ mặt lộ ý tịch liêu. Đây là chiêu cuối cùng của “Mỹ nữ quyền pháp”, gọi là chiêu “Cổ mộ u cư”, do Dương Quá tự tạo ra, Lâm Triêu Anh thời trước cũng như Tiểu Long Nữ hiện thời đều không biết. Sau khi học xong “Mỹ nữ quyền pháp”, Dương Quá nghĩ thầm tổ sư bà bà có đức hạnh chẳng thua gì các mỹ nữ thời xưa, nếu trong lộ quyền pháp này không có hình bóng tổ sư bà bà thì chưa toàn vẹn, thế là chàng bèn sáng tạo ra chiêu này, tiếng là tưởng nhớ Lâm Triêu Anh, cử chỉ thần thái thì lại mô phỏng sư phụ Tiểu Long Nữ của chàng. Khi đó Tiểu Long Nữ có nhìn thấy, song chỉ mỉm cười, không đùa giỡn với chàng.
Quần hùng đồng thanh hoan hô, reo to:
– Chúng ta thắng trận thứ hai rồi! Minh chủ võ lâm là cao thủ của Đại Tống!
– Thát tử Mông Cổ mau mau cút xéo, đừng vác mặt tới Trung Nguyên nữa?
Hai võ sĩ Mông Cổ vội chạy ra, khiêng Đạt Nhĩ Ba vào.
Kim Luân pháp vương thấy hai đệ tử đều thảm bại một cách cực kỳ vô lý bởi tay một gã thiếu niên, mà không phải do võ công thua kém, thì trong bụng hết sức tức giận, nhưng ngoài mặt thản nhiên như không, tựa người vào lưng ghế, quát:
– Gã thiếu niên kia, sư phụ của ngươi là ai?
Ngoài võ công tuyệt luân, lão ta còn bác học đa tài, biết cả tiếng Hán.
Dương Quá chỉ Tiểu Long Nữ, cười nói:
– Sư phụ của ta là vị này, lão hãy mau bái kiến minh chủ võ lâm!
Kim Luân pháp vương thấy Tiểu Long Nữ dịu dàng kiều mị, còn ít tuổi hơn Dương Quá, thì không tin nàng là sư phụ của chàng, nghĩ thầm: “Người Hán Trung Nguyên quỷ kế đa đoan, đừng hòng lừa nổi ta”. Lão đứng phắt dậy, lấy trong bọc ra một cái kim luân, lập tức vang lên nhiều tiếng loong coong. Cái kim luân này đường kính một thước rưỡi, đúc bằng vàng, trên khắc chân ngôn Mật tông bằng chữ Tạng, bên trong có chín quả cầu nhỏ, cầm kim luân lắc lắc, tiếng loong coong sẽ phát ra hồi lâu không dứt. Kim Luân pháp vương chỉ Tiểu Long Nữ, nói:
– Hừ, một tiểu cô nương như ngươi cũng đòi làm minh chủ võ lâm ư? Chỉ cần ngươi tiếp nổi ta mười chiêu kim luân này, ta sẽ công nhận ngươi làm minh chủ.
Dương Quá cười, nói:
– Ta đã thắng hai trận, đấu ba thắng hai, phe của lão đã nói rõ ngay từ đầu như thế, giờ còn gây sự nỗi gì?
Kim Luân pháp vương nói:
– Ta chỉ muốn thử võ công, xem tiểu cô nương này có xứng đáng hay không.
Tiểu Long Nữ không biết Kim Luân pháp vương võ công kinh thế hãi tục, cũng không biết “minh chủ võ lâm” là cái giống gì, càng không cần biết mình có xứng đáng hay không xứng đáng, nghe lão ta bảo muốn thử coi nàng có tiếp nổi mười chiêu của lão ta hay không, bèn đứng dậy, nói:
– Để đó ta thử.
Kim Luân pháp vương nói:
– Nếu cô nương không tiếp nổi mười chiêu của ta thì sao?
Tiểu Long Nữ nói:
– Không tiếp nổi tức là không tiếp nổi, chứ còn sao nữa?
Tiểu Long Nữ lúc này tuy đối với Dương Quá tình ái đã sâu, song đối với mọi chuyện khác, nàng vẫn không hề quan tâm. Quần hùng Trung Nguyên và đám võ sĩ Mông Cổ đều không biết bản tính của nàng, thấy nàng chẳng coi Kim Luân pháp vương ra gì, thì đoán là nàng có võ công cao thâm khôn lường, có người thấy Dương Quá sử dụng Di hồn đại pháp đánh bại Đạt Nhĩ Ba, còn cho rằng nàng biết sử dụng yêu pháp, nàng là Tiểu Yêu Nữ, ai nấy xôn xao bàn luận.
Kim Luân pháp vương cũng sợ nàng hành sử yêu pháp, bèn lên tiếng niệm thần chú, câu thần chú lão niệm là chân ngôn Mật tông “Hàng yêu phục ma chú”. Dương Quá đứng bên cạnh nghe rõ ràng, ngỡ rằng lão ta dùng tiếng Tạng chửi sư phụ của chàng, bèn cố ghi nhớ thật đầy đủ mọi chữ.
Kim Luân pháp vương niệm thần chú xong, vung cái kim luân lên, loong coong một hồi, quát Dương Quá:
– Mau lui ra, để ta động thủ!
Câu này lão đã nói bằng tiếng Hán. Dương Quá xua xua tay, không dám nói, sợ phân tâm sẽ quên mấy câu tiếng Tạng vừa thuộc, rồi chàng cũng đọc lại đúng như Kim Luân pháp vương vừa niệm chú. Vừa lúc đó Đạt Nhĩ Ba tỉnh lại, thấy sư phụ tay cầm kim luân, sắp động thủ với người, nghe Dương Quá niệm chân ngôn Mật tông “Hàng yêu phục ma chú”, là bí pháp bản môn, không bao giờ truyền cho người ngoài, Dương Quá nếu không đích thực là đại sư huynh tái sinh ở kiếp này, thì làm sao lại biết niệm thần chú? Đạt Nhĩ Ba vội bật dậy, quỳ trước mặt Kim Luân pháp vương mà nói:
– Sư phụ, đó đúng là đại sư huynh tái sinh, sư phụ hãy thu nhận lại chàng thiếu niên kia đi!
Kim Luân pháp vương tức giận:
– Nói láo! Ngươi đã mắc lừa còn chưa tỉnh hay sao.
Đạt Nhĩ Ba nói:
– Đó là điều thiên chân vạn xác, quyết không thể sai.
Kim Luân pháp vương thấy Đạt Nhĩ Ba cứ mê muội như vậy, bèn túm lưng áo y mà quẳng đi. Thân xác Đạt Nhĩ Ba nặng hơn trăm cân bị lão tăng túm quẳng đi nhẹ như không vậy.