Bọn Gia Luật Tề sợ ba người có gì sơ suất, chạy theo sau tiếp ứng, thấy bọn Quách Phù quay lại, bèn tới gần hành lễ làm quen. Cả bọn đều trẻ tuổi, chỉ sau dăm ba câu đã trở nên thân tình. Gia Luật Tề bỗng sực nhớ, hỏi:
– Dương huynh đâu nhỉ?
Hoàn Nhan Bình nói:
– Chàng bỏ đi một mình rồi. Muội hỏi chàng đi đâu, chàng cũng chẳng thèm trả lời.
Nói đoạn cúi đầu xuống.
Gia Luật Tề chạy lêи đỉиɦ một cái gò, nhìn tứ phía, chỉ thấy thanh y thiếu nữ cùng Lục Vô Song sánh vai nhau mà đi, cũng đã khá xa, Dương Quá thì không thấy tăm hơi đâu cả. Gia Luật Tề có cảm giác như mất đi cái gì. Chàng gặp Dương Quá đây là lần đầu, liên thủ chống địch, chỉ trong một buổi mà mấy lần hai người tưởng nguy đến tính mạng, đôi bên đã trở nên thân thiết bởi chung kẻ thù, nay Dương Quá đột nhiên bỏ đi, không một lời từ biệt, thì cảm thấy như mất đi một bằng hữu lâu năm vậy.
Nguyên Dương Quá thấy huynh đệ họ Võ phóng ngựa đến, cùng với Quách Phù hợp lực đánh nhau với Lý Mạc Sầu, ba người ấy thần tình thân mật, kiếm pháp thi triển lại vô cùng tinh diệu, chỉ vài chiêu đã buộc Lý Mạc Sầu phải bỏ chạy. Chàng không biết đấy là Lý Mạc Sầu ngán ngại vợ chồng Quách Tĩnh mà bỏ đi, chàng cứ tưởng rằng kiếm chiêu của ba người ẩn chứa nội lực cực kỳ lợi hại, khiến Lý Mạc Sầu không thể chống đỡ.
Ngày Quách Tĩnh dẫn chàng l núi Chung Nam học nghệ, Quách Tĩnh đã thi triển hùng uy, đánh bại vô số đạo sĩ phái Toàn Chân, võ công cao cường của Quách Tĩnh để lại ấn tượng quá sâu trong trí óc non nớt của chàng, thiết nghĩ đệ tử của Quách Tĩnh phải có võ công cao hơn chàng gấp mười lần. Với định kiến như vậy, nhìn một chiêu kiếm pháp tầm thường của ba người kia, chàng cũng ngỡ rằng nó ẩn chứa chiêu số diệu kỳ. Chàng càng nhìn càng phẫn uất, nhớ hồi nhỏ ở Đào Hoa đảo bị huynh đệ họ Võ hai phen đánh đập, Quách Phù đứng bên cạnh cứ xúi: “Đánh nữa đi! Đánh mạnh vào”. Lại nhớ Hoàng Dung cố ý không dạy võ công cho chàng, Quách Tĩnh võ công cao cường như thế, cũng không chịu truyền thụ, lại dẫn chàng lên cung Trùng Dương, núi Chung Nam, để cho bọn đạo sĩ hành hạ, thì trong lòng chàng đầy một nỗi oán hận. Lại thấy bọn Hoàn Nhan Bình, Lục Vô Song, thanh y thiếu nữ, Gia Luật Yến đều nhìn chàng với ánh mắt khác lạ, nghĩ thầm: “Lý Mạc Sầu dùng lời lẽ nhơ nhuốc chửi cô cô của ta, bọn người kia đều tin. Bọn họ coi thường ta thì cứ việc, nhưng sao dám khinh bỉ cô cô của ta? Ta lúc này mặt mũi khó coi, là do ta giận huynh đệ họ Võ và Quách Phù, giận Quách bá phụ, Quách bá mẫu, các người lại tưởng rằng vì ta tằng tịu dan díu với cô cô của ta mà ta hổ thẹn ư?” Đột nhiên chàng chạy như phát cuồng, cũng không theo đường nào cả, cứ chạy loạn giữa cảnh hoang dã. Lúc này tâm thần của chàng bất thường, chỉ nghĩ mọi người trong thiên hạ đều gây khó dễ với chàng, lại quên rằng mình đang đeo mặt nạ, dẫu sắc mặt có khó coi hay ngượng ngùng chăng nữa, bọn Hoàn Nhan Bình kia làm sao thấy được? Không dưng vô cớ mấy người kia sao lại chê cười chàng? Lý Mạc Sầu nổi tiếng xấu xa chốn giang hồ, đang chống đối mọi người, ai lại đi tin lời của mụ ta?
Chàng vốn từ vùng tây bắc đi xuống hướng đông nam, bây giờ chàng rời bỏ mấy người kia càng lúc càng xa, rốt cuộc lại chạy về hướng tây bắc. Trong lòng rối loạn, căm ghét thế gian, chàng lột mặt nạ, cứ đi bừa giữa chốn hoang sơn dã lĩnh, đói bụng thì hái quả dại rau dại mà ăn. Càng đi càng xa, chưa đầy một tháng, hình dung tiều tụy, quần áo rách nát, đến một vùng núi cao. Chàng cũng không biết đây là Hoa Sơn, một trong Ngũ nhạc của thiên hạ. Chỉ thấy sơn thế hiểm trở, thì cứ leo lêи đỉиɦ núi như một người điên.
Khinh công của chàng tuy cao, nhưng sự hiểm trở của Hoa Sơn thì cũng không đâu bằng. Leo tới lưng chừng núi, khí trời rất lạnh, mây vờn trên đầu, gió bấc mạnh dần, tiếp đó hoa tuyết rơi lả tả. Trong lòng phiền não, chàng tự hành hạ mình, chẳng tìm chỗ tránh tuyết, gió tuyết càng mạnh, chàng càng chọn chỗ vách núi cheo leo mà đi, đi đến gần tối, tuyết rơi từng nắm lớn, dưới chân trơn trượt, đường càng khó đi, chỉ cần bước hụt một cái, rất dễ lăn xuống vực sâu vạn trượng, tan xương nát thịt. Chàng cũng bất cần, coi tính mạng của mình như cỏ rác, cứ thế cắm đầu leo thẳng lên.
Đọc TruyệnLại đi một hồi, bỗng nghe sau lưng tiếng lạo xạo khe khẽ, tựa hồ có dã thú chạy trong tuyết, Dương Quá liền quay mình lại, thấy phía sau có một bóng người nhảy xuống sơn cốc.
Dương Quá cả kinh, vội chạy lại chỗ đó, nhòm xuống hẻm núi, thấy một người dùng ba ngón tay bám vào vách đá, thân người treo lơ lửng giữa không trung. Chỉ dùng ba ngón tay bám vào vách đá, giữ toàn thân treo lơ lửng, dưới kia là vực sâu vạn trượng, võ công cao siêu như thế thật ngoài sức tưởng tượng. Thế là chàng bèn cung kính hành lễ, nói:
– Lão tiền bối, thỉnh người lên đây!
Người kia cười ha ha, vang động cả sơn cốc, bật người lên mép vực, đột nhiên gằn giọng hỏi:
– Ngươi có phải là đồng đảng của “Tạng biên ngũ xú” hay không? Giữa lúc gió to tuyết dầy, nửa đêm khuya khoắt, lén lén lút lút làm gì ở chốn này?
Dương Quá tự dưng bị nhiếc móc, nghĩ thầm: “Đại phong đại tuyết, bán dạ tam canh, rốt cuộc mình lén lén lút lút làm gì ở đây vậy?” Động đến tâm sự, chàng đột nhiên khóc òa lên, nghĩ một đời bất hạnh, bị người khinh rẻ, người mà chàng kính yêu vô hạn là Tiểu Long Nữ thì lại vô lý trách cứ chàng, đoạn tuyệt bỏ đi, chắc kiếp này chẳng còn hy vọng gặp lại, thì khóc một cách đau đớn não nề, tưởng chừng muốn dốc cho vợi ngàn mối sầu oán tích kết trong lòng.
Người kia thoạt nghe chàng khóc, thì không khỏi ngẩn ra, càng nghe càng thấy tiếng khóc đau thương, thì lấy làm lạ, cuối cùng thấy chàng khóc mãi không dừng, thì đột nhiên cất tiếng cười vang, một khóc một cười, hai thứ tiếng đυ.ng vào nhau trong sơn cốc, chấn động, làm cho từng tảng tuyết bám trên vách núi rơi xuống tới tấp.
Dương Quá thấy người kia cười, thì nín khóc, giận hỏi:
– Lão tiền bối cười gì vậy?
Người kia cười, hỏi:
– Ngươi khóc cái gì vậy?
Dương Quá định dùng lời lẽ nặng nề, nhưng nghĩ người kia võ công cao siêu khôn lường, đành nuốt giận, cung kính vái chào, nói:
– Tiểu nhân Dương Quá, tham kiến tiền bối.
Người kia dùng một cái que trúc gẩy khẽ vào cánh tay chàng một cái, Dương Quá cảm thấy bị một luồng lực đạo đẩy mạnh ra phía sau, thế đẩy khiến chàng không thể không ngã ngửa, nhưng chàng đã từng luyện “Cáp mô công”, đầu ở dưới đất, chân chĩa lên trời, thế là chàng bèn lộn người một vòng, ngã rồi lại đứng ngay ngắn như cũ.
Việc xảy ra bất ngờ đối với cả hai người. Với võ công hiện tại của Dương Quá, người khác muốn xuất thủ một cái khiến chàng phải ngã lộn người đi một vòng, thì cao thủ như Lý Mạc Sầu, Khưu Xứ Cơ cũng chẳng thể làm nổi. Người kia thấy Dương Quá lộn một vòng lại đứng vững như cũ, thì cũng không dám coi thường chàng nữa, lại hỏi:
– Ngươi khóc cái gì?
Dương Quá nhìn kỹ, thấy người kia là một lão nhân râu tóc bạc trắng, quần áo rách rưới như một gã hành khất, tuy trong bóng tối, nhưng được ánh tuyết trắng hắt lên, chàng thấy mặt lão nhân hồng hào, thần thái hăng say, thì bất giác kính nể, nói:
– Tiểu nhân số mệnh hẩm hiu, sống trên đời như thừa, chi bằng chết quách cho xong.
Lão nhân nghe lời lẽ chua chát, đúng là đầy phẫn uất thì gật gật đầu, hỏi:
– Ai vũ nhục ngươi? Mau nói cho công công của ngươi nghe coi.
Dương Quá nói:
– Phụ thân của tiểu nhân bị người ta gϊếŧ, song không biết là ai gϊếŧ. Mẫu thân của tiểu nhân lại bị bệnh qua đời, trên thế gian chẳng có ai thương xót tiểu nhân.
Lão nhân nói:
– Hừm, đáng thương thật. Sư phụ dạy võ công cho ngươi là ai?
Dương Quá nghĩ thầm: “Quách bá mẫu danh nghĩa là sư phụ của ta, nhưng không dạy ta chút võ công nào cả. Bọn đạo sĩ thối tha phái Toàn Chân nhắc đến chỉ thêm bực mình. Âu Dương Phong là nghĩa phụ của ta, chứ không phải là sư phụ. Võ công của ta là do cô cô dạy. Nhưng cô cô nói muốn làm thê tử của ta, ta cứ gọi cô cô là sư phụ, thì cô cô lại tức giận. Kinh sách mà Vương Trùng Dương tổ sư và Lâm Triệu Anh bà bà khắc họa trên trần thạch thất, sao có thể gọi là sư phụ của ta? Sư phụ của ta tuy nhiều, song không thể nhắc đến một ai cả”. Câu hỏi của lão nhân lại động đến tâm sự của chàng, chàng lại khóc òa lên, nói:
– Tiểu nhân không có sư phụ, không có sư phụ!
Lão nhân nói:
– Được rồi! Được rồi! Ngươi không chịu nói thì thôi.
Dương Quá khóc, nói:
– Không phải là tiểu nhân không chịu nói, mà là không có thật.
Lão nhân nói:
– Không có thì thôi, làm sao phải khóc? Ngươi có quen biết “Tạng biên ngũ xú” hay không?
Dương Quá đáp:
– Tiểu nhân không quen biết.
Lão nhân nói:
– Ta thấy ngươi một mình đi trong đêm tối, lại tưởng ngươi là đồng đảng của “Tạng biên ngũ xú”. Đã không phải, thì rất tốt.
Lão nhân chính là “Cửu chỉ thần cái” Hồng Thất Công. Lão nhân đã đem chức vị bang chủ Cái Bang truyền cho Hoàng Dung, rồi một mình phiêu du nơi này chốn nọ, tìm kiếm và thưởng thức của ngon vật lạ trong thiên hạ. Quảng Đông địa khí ôn hòa, là nơi có nhiều món ăn trân kỳ hơn cả. Từ khi đến Lĩnh Nam, Hồng Thất Công ở lỳ tại đó hơn mười năm, không trở lên Trung Nguyên ở phía bắc nữa.
Đất Quảng rắn độc mèo già, cá đốm chuột khoang, đều là món ăn khoái khẩu, tôm hùm hấp rượu, hào mập nấu cháo, heo sữa quay giòn, thôi thì đủ món, Hồng Thất Công như lên thiên đường, khoái lạc vô cùng. Gặp chuyện bất bình, lão lại kín đáo phò nguy tế khốn, diệt ác trừ gian, với bản lĩnh hiện thời của lão, không ai có thể hay biết lão đang hiện diện chỗ nào. Có lần nghe lỏm các đệ tử Cái Bang trò chuyện, lão được biết Cái Bang dưới sự dẫn dắt của Hoàng Dung, Lỗ Hữu Cước, thái bình vô sự, bên trong giảm bớt sự tranh chấp giữa hai phe áo dơ, áo sạch, bên ngoài thì loại trừ sự uy hϊếp của người Kim và bang Thiết Chưởng, lão nhân gia thảnh thơi vô sự, ngày ngày chỉ bận bịu với việc ăn uống thỏa thích mà thôi.
Năm nay Nhị xú trong “Tạng biên ngũ xú” tại Quảng Đông lạm sát người vô tội, gϊếŧ hại không biết bao nhiêu người lương thiện. Hồng Thất Công ghét ác như kẻ thù, vốn đã định ra tay trừ khừ Nhị xú, nhưng muốn gϊếŧ một mình hắn thì quá dễ, tìm diệt bốn tên còn lại trong “Tạng biên ngũ xú” sẽ rất khó khăn, bởi vậy Hồng Thất Công mới bí mật bám theo tung tích, chờ khi cả năm tên tụ lại một chỗ, lão sẽ một đòn diệt sạch cho gọn, không ngờ bám theo từ nam lên bắc, vượt qua ngàn dặm, cuối cùng đến tận Hoa Sơn. Hiện thời bốn trong năm “Tạng biên ngũ xú” đã tụ một chỗ, chỉ còn tên đứng đầu, gọi là Đại xú, chưa đến. Lão đang theo dõi, thì trong đêm tối tuyết dày bắt gặp Dương Quá.
Hồng Thất Công nói:
– Hai ta tạm gác chuyện ấy lại đã, ta thấy ngươi chắc đã đói bụng, phải ăn no rồi tính.
Thế là lão bới tuyết tìm một số cành củi, nhóm một đống lửa. Dương Quá giúp lão kiếm củi, hỏi:
– Lão tiền bối nấu món gì ạ?
Hồng Thất Công nói:
– Món Ngô Công (thịt rết)!
Dương Quá ngỡ lão nói đùa, chỉ cười cười, không hỏi thêm. Hồng Thất Công nói:
– Ta vất vả đuổi theo “Tạng biên ngũ xú” từ Lĩnh Nam, một mạch đến tận Hoa Sơn này, nếu không tìm được vài món ăn đặc biệt, thì hóa ra không phải với nó quá sao?
Lão vừa nói vừa vỗ vỗ vào bụng. Dương Quá thấy toàn thân lão săn chắc, chỉ riêng cái bụng là hơi phệ. Hồng Thất Công lại nói:
– Cái chất âm của Hoa Sơn là thứ cực âm hàn trong thiên hạ, lũ rết ở đây béo ngậy. Quảng Đông tiết trời nóng bức, bách vật sinh trưởng nhanh, thịt rết không ngon mấy.
Dương Quá nghe lão nói nghiêm trang, hình như không phải nói đùa, thì nửa tin nửa ngờ.
Hồng Thất Công đặt bốn hòn đá vây quanh đống lửa, lấy từ bên thắt lưng ra một cái nồi sắt nhỏ, đặt lên bếp, vốc hai vốc tuyết bỏ vào nồi, nói:
– Theo ta đi bắt rết.
Vụt một cái, lão đã nhảy lên chỗ vách núi cao hơn hai trượng. Dương Quá thấy sơn thế hiểm trở, không dám nhảy. Hồng Thất Công gọi:
– Lên đây mau! Tên tiểu tử vô dụng kia!
Dương Quá ức nhất là bị người khác coi thường, nghe gọi vậy bèn nghiến răng, đề khí nhảy lên, nghĩ thầm: “Sợ cái gì? Ngã mất mạng là cùng chứ gì?” Khi bạo gan hơn, khinh công thi triển càng nhịp nhàng như ý, chàng bám sát đằng sau Hồng Thất Công, những chỗ cheo leo trơn trượt, chàng cũng vượt qua được cả.
Chừng sau một tuần trà, hai người leo tới một đỉnh núi không có dấu chân người. Hồng Thất Công thấy chàng có tài và có gan thi triển khinh công như vừa rồi, thì rất hài lòng, với kiến thức quảng bác của mình, lão vẫn chưa nhận biết được lai lịch võ công của gã thiếu niên này, cũng định hỏi cho ra lẽ, nhưng còn mải nghĩ đến món ăn ngon lành, bèn tới bên một tảng đá lớn, hai tay bới đất vun lên miệng hố. Một lát sau thì lộ ra một con gà trống đã chết. Dương Quá lấy làm lạ, hỏi:
– Ô hay, sao ở đây lại có con gà trống?
Rồi chợt hiểu: “Thì ra lão nhân gia vùi nó ở đây”. Hồng Thất Công cười cười, lôi con gà lên. Trong ánh sáng mờ mờ của tuyết, chàng thấy có mấy chục con rết bám cắn thân con gà. Lũ rết dài bảy, tám tấc, đốt đen đốt hồng, hoa văn loang lổ, chúi đầu nhung nhúc. Chàng từ nhỏ lưu lạc giang hồ, vốn không sợ độc trùng, nhưng đột nhiên gặp ở một chỗ nhiều con rết lớn thế này, chàng cũng không khỏi rùng mình. Hồng Thất Công đắc ý, nói:
– Rết và gà hai loài xung khắc nhau, tối qua ta vùi ở đây con gà này, quả nhiên dụ được rết tứ phía bu lại.
Lão nhét con gà cùng lũ rết vào trong một cái túi vải, hoan hỉ rời khỏi đỉnh núi. Dương Quá theo sau, rùng mình nghĩ thầm: “Không lẽ xơi món rết thật? Trông thần tình của lão, không phải lão có ý dọa ta”.
Lúc này nồi nước tuyết đã sôi sùng sục, Hồng Thất Công mở túi vải, tóm đuôi rết, thả từng con vào trong nồi. Lũ rết quằn quại một lát, đều chết thẳng cẳng. Hồng Thất Công nói:
– Lũ rết lúc sắp chết, có bao nhiêu chất độc trong cơ thể đều nhả ra hết, cho nên nồi nước này độc lắm đó.
Dương Quá đổ nước luộc rết xuống vực.
Hồng Thất Công dùng một con dao nhỏ chặt đầu đuôi từng con rết, tuốt nhẹ một cái, cái vỏ của con rết tuột ra, để lộ lớp thịt màu trắng, hơi trong, như thịt tôm, trông rất đẹp.
Hồng Thất Công lại đun sôi một nồi nước, cho thịt rết vào nhúng cho hết sạch chất độc, rồi lấy từ cái bọc sau lưng ra bảy, tám lọ đựng dầu mỡ mắm muối gia vị. Lão cho mỡ vào nồi, xào thịt rết, lập tức một mùi thơm nức mũi tỏa ra. Dương Quá thấy lão nuốt nước miếng liên tục, lộ rõ vẻ hăm hở thèm ăn, thì vừa kinh ngạc vừa buồn cười.