- 🏠 Home
- Kiếm Hiệp
- Truyện Nam
- Thần Điêu Hiệp Lữ
- Chương 11
Thần Điêu Hiệp Lữ
Chương 11
Cây thiết trượng cách lưng Âu Dương Phong chưa đầy một thước, nghe keng một tiếng, cây thiết trượng bị đánh bật lại, Kha Trấn Ác không cầm được, để nó văng xuống sân, lão cũng phải nhảy xuống theo.
Quách Tĩnh biết sư phụ không việc gì, nhưng nếu để Âu Dương Phong thừa thế nhảy xuống truy kích thì nguy, bèn quát:
– Tiếp chiêu!
Chân trái hơi khuỵu, hữu chưởng vẽ một vòng tròn rồi đẩy ngang ra, chính là chiêu “Kháng long hữu hối” trong “Hàng long thập bát chưởng”. Một chiêu này đêm ngày khổ luyện, hồi mới học đã lợi hại, sau mười năm khổ công, đã đạt tới cảnh giới lô hỏa thuần thanh, lúc vừa đẩy ra, trông rất đơn giản, nhưng một khi gặp trở lực, trong giây lát sẽ có mười ba đạo hậu kình hùng mạnh dồn dập tràn tới, rắn chắc mấy cũng sẽ bị đập tan. Đấy là diệu cảnh chàng ngộ ra được từ “Cửu Âm chân kinh”, tính từ thời trai trẻ của Hồng Thất Công đến giờ, chưa một ai luyện được chiêu số ảo diệu này.
Âu Dương Phong vừa đánh bật Kha Trấn Ác khỏi mái nhà, chỉ cảm thấy một làn gió nhẹ thổi tới mặt, thế gió tuy không mạnh, nhưng đã khiến lão khó thở, thì biết là lợi hại, vội rùn người xuống, song chưởng cùng đẩy ngang ra, chính là “Cáp mô công” đắc ý nhất đời của lão. Ba chưởng giao nhau, thân thể hai người cùng chấn động. Quách Tĩnh gia tăng chưởng lực, đạo này tiếp đạo khác, ào ào như sóng dồn, Âu Dương Phong thân mình lao đao như sắp ngã, song chưởng lực của Quách Tĩnh càng gia tăng, thì lực phản kích của lão cũng tăng theo.
Hai người không đấu với nhau đã hơn mười năm, lần này trùng phùng ở Giang Nam, đều muốn thử xem đối phương tiến bộ tới mức nào. Hồi Hoa Sơn luận kiếm, Quách Tĩnh chưa phải là đối thủ của Âu Dương Phong, nhưng giờ đã khác, võ công của chàng đại tiến, Âu Dương Phong tuy nghịch luyện “Cửu Âm chân kinh” cũng có điều tâm đắc, song một thuận một nghịch, rốt cuộc thuận phải thắng nghịch. Lần này giao đấu, Quách Tĩnh đã hoàn toàn ngang hàng với lão, khó phân cao thấp. Hoàng Dung muốn phu quân một mình thủ thắng, nên chỉ đứng bên quan sát, không nhảy vào hợp kích.
Ở miền Nam, mái nhà khác hẳn ở miền Bắc. Ở miền Bắc, mái nhà phải chịu đựng băng tuyết mùa Đông chất đống, nên được làm thật vững chắc, còn từ sông Hoài trở xuống miền Nam, mái nhà lợp ngói hai lớp, lấy gọn nhẹ làm chính. Quách Tĩnh và Âu Dương Phong đang đấu chưởng lực với nhau, lực thông hai chân, sau thời gian uống hết một ấm trà, bỗng nghe dưới chân răng rắc, rồi sầm một tiếng lớn, rui mè, mấy cái tay đòn bị gãy cùng lúc, mái nhà sụp xuống để hổng một lỗ lớn, cả hai người cùng rơi xuống.
Hoàng Dung giật mình, cũng nhảy xuống dưới qua lỗ hổng, chỉ thấy hai người vẫn tiếp tục đấu chưởng lực với nhau, mấy cái tay đòn gãy đè lên một người khách trọ. Người ấy đang ngủ sực tỉnh, đâu ngờ họa giáng từ trên trời xuống, thấy hai chân đã bị gãy nát, đau đớn kêu như bị chọc tiết. Quách Tĩnh không nỡ dùng lực dưới chân để đỡ làm khổ người vô tội, Âu Dương Phong thì chẳng thèm lý đến sự sống chết của người khác. Lực của đôi bên vốn ngang nhau, nhưng do Quách Tĩnh dưới chân không dùng lực trụ, chưởng bên trên không có nguồn, dần dần sa vào thế hạ phong. Chàng dùng đơn chưởng đấu với song chưởng của đối phương, lực toàn thân dồn vào hữu chưởng, tay trái tuy không làm gì, song cũng không thể dùng lực gì được. Hoàng Dung thấy chồng thân hơi ngả ra sau, tuy chỉ vài tấc, nhưng rõ ràng đã là bại thế, nàng bèn kêu lên:
– Này Trương Tam Lý Tứ, Hồ Đồ Vương Bát, hãy tiếp chiêu!
Một chưởng nhẹ nhàng vỗ tới vai Âu Dương Phong.
Chưởng này xuất chiêu tuy nhẹ nhưng là công phu thượng thừa của “Lạc Anh thần kiếm chưởng pháp”, khi trúng vào thân thể kẻ địch, kình lực sẽ thấu vào nội tạng, dẫu là danh gia hạng nhất như Âu Dương Phong cũng không tránh khỏi nội thương. Âu Dương Phong thấy nàng lại gọi mình bằng một thứ họ tên kỳ quái, hơi ngẩn ngơ, thấy đòn đã đánh tới, bèn đẩy mạnh song chưởng, đẩy chưởng lực của Quách Tĩnh bật ra nửa thước, rồi trong sát-na ấy phóng một trảo vào đầu vai Hoàng Dung, năm ngón tay như năm cái móc sắt quặp vào da thịt nàng.
Một trảo này phát ra, cả ba người cùng kinh ngạc. Âu Dương Phong chỉ cảm thấy các đầu ngón tay buốt nhói, thì ra lão đã chộp trúng cái túi lông nhím trên người nàng, vội buông tay ra. Đúng lúc ấy, chưởng lực của Quách Tĩnh lại dồn tới, Âu Dương Phong hồi chưởng chống đỡ, trong lúc nguy cấp, ai nấy xuất toàn lực, nghe “bình” một tiếng, hai người cùng bật ra, bụi bặm bay tứ tung, tường nhà rung rinh. Thì ra hai người vừa dùng cương chưởng, trong bóng tối không nhìn rõ thân hình đối phương, bao nhiêu sức mạnh của “Hàng long thập bát chưởng” và “Cáp mô công” rốt cuộc giáng vào vai của đối phương. Hai người phá thủng tường văng ra ngoài, nửa mái nhà phía bên này sụp xuống. Hoàng Dung tuy không bị thương vì trảo vừa rồi, nhưng mặt hoa cũng tái đi vì sợ, nàng cũng vội phi thân ra ngoài. Chỉ thấy Âu Dương Phong và Quách Tĩnh đứng bất động cách nhau nửa trượng, hiển nhiên đều đã bị nội thương nghiêm trọng.
Hoàng Dung không kịp tấn công địch, tới đứng bên cạnh bảo vệ phu quân. Nàng thấy hai người nhắm mắt vận khí, rồi không hẹn mà cùng hộc ra một ngụm máu tươi. Âu Dương Phong nói:
– “Hàng long thập bát chưởng”, hừ, gớm thật, gớm thật!
Lão cười như điên rồi chạy đi, loáng một cái đã biến mất tăm.
Lúc này trong khách điếm đã nhốn nháo cả lên, tiếng gọi nhau í ới loạn xạ. Hoàng Dung biết không thể ở đây thêm nữa, bèn ôm lấy con gái từ tay Kha Trấn Ác, nói:
– Sư phụ hãy vác Tĩnh ca ca, chúng ta rời khỏi đây thôi!
Kha Trấn Ác vác Quách Tĩnh đi về hướng Bắc. Đi một đoạn, Hoàng Dung chợt nhớ đến Dương Quá không biết lúc này cậu bé chạy đâu, nhưng nghĩ phu quân nàng đang bị trọng thương, mọi chuyện khác hãy gác lại tính sau.
Quách Tĩnh đầu óc vẫn tỉnh táo, chỉ bị chưởng lực của Âu Dương Phong làm cho tức thở, trong lúc được Kha Trấn Ác vác đi, chàng điều hòa hô hấp, vận khí thông mạch, đi chừng bảy, tám dặm thì các mạch đã thông, bèn nói:
– Đại sư phụ, đỡ lắm rồi.
Kha Trấn Ác đặt chàng xuống, hỏi:
– Khỏe rồi cơ à?
Quách Tĩnh lắc đầu, nói:
– “Cáp mô công” lợi hại thật!
Thấy Quách Phù ngả đầu vào vai mẹ ngủ ngon lành, chàng hỏi:
– Còn Quá nhi đâu?
Kha Trấn Ác nhất thời chưa nghĩ ra Quá nhi là ai, chẳng biết trả lời thế nào. Hoàng Dung nói:
– Chàng cứ yên tâm, ta tìm một chỗ nghỉ đã, rồi thϊếp sẽ trở lại tìm nó.
Lúc này trời đã sắp sáng, đã có thể lờ mờ nhận biết cây cối, nhà cửa ven đường. Quách Tĩnh nói:
– Thương thế của ta không đáng ngại, ta cùng đi tìm với nàng.
Hoàng Dung cau mày, nói:
– Thằng bé ấy tinh nhanh lắm, chàng khỏi cần lo cho nó.
Vừa nói tới đó, bỗng sau bức tường trắng bên đường có một cái đầu nhỏ nhô lên rồi thụp xuống ngay. Hoàng Dung vụt tới tóm được, chính là Dương Quá. Cậu bé cười hì hì, nói:
– A di, các vị vừa mới tới phải không? Điệt nhi chờ ở đây khá lâu rồi.
Hoàng Dung lòng đầy ngờ vực, nhưng chỉ nói:
– Thế thì hãy đi theo chúng ta!
Dương Quá cười cười theo sau. Quách Phù mở mắt ra, hỏi:
– Đằng ấy đi đâu vậy?
Dương Quá nói:
– Ta đi bắt dế, xem chúng chọi nhau mới khoái.
Quách Phù hỏi:
– Có gì mà khoái?
Dương Quá nói:
– Ai bảo không khoái? Một con dế to đánh nhau với một con dế già. Con dế già thua, có hai con dế con đến giúp. Ba con dế đánh một. Con dế to nhảy qua nhảy lại, đá con này, cắn con kia, hì hì, lợi hại thật…
Quách Phù lắng nghe, hỏi:
– Sau đó thế nào?
Dương Quá nói:
– Ngươi bảo không khoái, còn hỏi làm gì?
Quách Phù ớ họng, tức lắm, ngoảnh mặt đi.
Hoàng Dung nghe cậu bé nói, rõ ràng nó ám chỉ chê bai Kha Trấn Ác cùng vợ chồng nàng, khen Âu Dương Phong, bèn hỏi:
– Điệt nhi thử nói cho a di biết, cuối cùng thì bên nào thắng?
Dương Quá cười cười, thản nhiên đáp:
– Điệt nhi đang thích thú xem trận đấu của mấy con dế, thì các vị tới, lũ dế thấy động, bỏ chạy hết cả.
Hoàng Dung nghĩ thầm: “Đúng là cha nào con ấy”, nàng không khỏi cảm thấy hơi khó chịu.
Trong lúc nói chuyện, họ tới một thôn. Hoàng Dung vào gặp chủ nhân một tòa nhà lớn. Người này rất hiếu khách, nghe nói có người bị thương sinh bệnh, vội sai quét dọn sương phòng tiếp đãi.
Quách Tĩnh ăn hết ba tô cơm, ngồi trên giường nhắm mắt dưỡng thần. Hoàng Dung thấy phu quân khí định thần nhàn, biết là đã qua cơn nguy hiểm, chỉ ngồi bên cạnh bảo vệ. Nàng nghĩ đến việc từ khi gặp Dương Quá đến giờ, cậu bé này còn nhỏ tuổi song lại có nhiều điểm lạ lùng khó hiểu, dẫu có tra vấn, nó cũng sẽ không nói thật. Nàng nghĩ bụng phải cẩn thận để ý các hành động của nó mới được. Ăn bữa tối xong, ai nấy đi ngủ.
Dương Quá ở chung một buồng với Kha Trấn Ác. Nửa đêm, cậu len lén ngồi dậy, nghe tiếng thở của Kha Trấn Ác, biết là lão đang ngủ say, bèn mở cửa buồng, lẻn ra ngoài, đến bên tường, bám lấy một cành quế, đu người lên bờ tường, nhảy xuống. Bên ngoài có hai con chó ngửi thấy hơi người liền sủa lên. Dương Quá đã chuẩn bị sẵn từ ban ngày hai mẩu xương, bây giờ cậu lấy trong túi ra ném cho chó. Hai con chó ngoạm lấy mẩu xương, lập tức thôi sủa.
Dương Quá đi về hướng tây nam, chừng bảy, tám dặm, thì đến trước miếu Thiết Thương. Cậu đẩy cửa miếu, gọi:
– Cha ơi, con đến đây!
Chỉ nghe bên trong có tiếng ừm, chính là tiếng Âu Dương Phong. Dương Quá cả mừng, lần tới bàn thờ, tìm được cái giá cắm nến, đốt mẩu nến cháy dở, thấy Âu Dương Phong nằm trên mấy tấm bồ đoàn ở trước bức tượng thần, sắc diện uể oải, hơi thở yếu ớt. Tình trạng thụ thương của lão cũng giống như Quách Tĩnh, có điều là Quách Tĩnh đang tuổi tráng niên, phục hồi mau chóng, còn lão thì đã bước sang tuổi già, tinh lực kém sút hẳn.
Nguyên đêm hôm trước ở khách điếm, Dương Quá ngủ cùng buồng với Kha Trấn Ác, lúc nửa đêm Âu Dương Phong lại tới gặp cậu. Kha Trấn Ác tỉnh giấc, động thủ với Âu Dương Phong. Sau đó Quách Tĩnh, Hoàng Dung lần lượt tham chiến. Dương Quá ở bên nhìn thấy cả. Cuối cùng Âu Dương Phong và Quách Tĩnh cùng bị thương, Âu Dương Phong bỏ đi. Dương Quá nhân lúc hỗn loạn, không ai chú ý đến cậu, bèn lẳng lặng chạy theo Âu Dương Phong. Thoạt đầu Âu Dương Phong chạy quá nhanh, Dương Quá theo không kịp, nhưng rồi thương thế phát tác, Âu Dương Phong đi chậm dần. Dương Quá đuổi kịp, dìu lão nghỉ lại bên đường. Dương Quá tự biết, nếu cậu không quay trở lại, Hoàng Dung, Kha Trấn Ác sẽ đi tìm, e nguy lây đến tính mạng của nghĩa phụ, bèn hẹn với Âu Dương Phong sẽ gặp nhau ở miếu Thiết Thương. Miếu Thiết Thương có can hệ đến cả hai người, nên vừa nhắc tới là biết ngay. Sau đó Dương Quá một mình chờ ở bên đường cho đến lúc gặp gia đình Quách Tĩnh. Nửa đêm hôm nay cậu mới tìm tới đây.
Dương Quá lấy trong bọc ra bảy, tám cái bánh bao, đặt vào tay Âu Dương Phong, nói:
– Cha ơi, cha ăn đi.
Âu Dương Phong cả ngày hôm nay nhịn đói, sợ đi ra ngoài gặp kẻ thù, chỉ nằm lỳ trong miếu. Ăn hết mấy cái bánh, tinh thần phấn chấn hẳn lên, lão hỏi:
– Bọn chúng ở đâu?
Dương Quá kể lại mọi chuyện.
Âu Dương Phong nói:
– Gã họ Quách bị một chưởng của ta, trong vòng bảy ngày khó mà phục hồi, con vợ hắn phải săn sóc chồng, không dám đi đâu, hiện giờ chúng ta chỉ ngại mỗi lão già mù Kha Trấn Ác. Đêm nay lão ta chưa tới, ngày mai sẽ tới. Chỉ tiếc là ta không có sức. Ô, hình như là ta đã gϊếŧ các huynh đệ của lão ta, chẳng nhớ là bốn hay năm đứa gì đó…
Nói đến đây tự dưng lão ho sặc sụa.
Dương Quá ngồi dưới đất, nghĩ thầm: “Mình phải bố trí vài vật nhọn ở dưới chân, lão già mù mà tới đây sẽ khiến cho lão bị thương một phen mới được”.
Thế là cậu lấy bốn cái giá cắm nến trên bàn thờ xuống, vứt các mẩu nến thừa lưu cữu đi, đặt ở cửa ra vào, lại bưng một cái bát hương leo lên đặt trên bậu cửa miếu.
Cậu ngó quanh, muốn bố trí vài thứ có thể hại người, thấy hai phía đông tây trong điện treo hai quả chuông lớn, mỗi quả chuông phải ba người dang tay ôm mới xuể, chắc nặng ngàn cân. Đỉnh quả chuông có móc sắt, móc vào giá gỗ lớn. Miếu Thiết Thương nhiều năm không tu bổ, lắm chỗ hoang tàn, nhưng hai quả chuông và cái giá gỗ thì vô cùng vững chắc, không suy suyển gì hết. Dương Quá nghĩ thầm: “Lão mù mò đến đây, ta sẽ leo lên trên cái giá treo chuông, cho lão tha hồ mà tìm ta”.
Dương Quá cầm cái giá cắm nến định vào hậu điện tìm mấy thứ phòng thân, bỗng nghe ngoài đường có tiếng cây thiết trượng chống xuống đất lộc cộc, thì biết là Kha Trấn Ác đã tới, vội thổi tắt nến, nhưng lại nghĩ thầm: “Lão mù đâu có nhìn thấy gì mà ta phải tắt nến đi”. Nghe tiếng lộc cộc càng lúc càng gần, Âu Dương Phong vội ngồi dậy, muốn dồn chút sức tàn vào hữu chưởng, định ra đòn trước, một chưởng đánh chết ngay đối phương. Dương Quá thì chìa cái cọc nến ra phía ngoài, rồi đứng bên cạnh Âu Dương Phong, nghĩ bụng mình dẫu võ nghệ thấp kém, cũng phải trợ giúp nghĩa phụ, liều mạng một phen với lão mù.
Kha Trấn Ác cho rằng Âu Dương Phong bị trọng thương, không thể đi xa, gần đây có miếu Thiết Thương, chính là nơi thời trước Âu Dương Phong hay ghé tới, lão ta cũng chẳng dám trú nhờ nhà dân, chắc chỉ còn trốn ở miếu Thiết Thương, lại nghĩ đến năm huynh đệ phải chết thảm dưới tay Âu Dương Phong, nay có cơ hội báo thù, lẽ nào bỏ qua? Lão ngủ đến nửa đêm, thức dậy gọi khẽ hai tiếng: “Quá nhi, Quá nhi!” không thấy trả lời, đoán là cậu bé ngủ say, chẳng lại gần kiểm tra, mà vượt tường đi ra. Hai con chó đang gặm xương, thấy lão già chỉ gầm gừ vài tiếng, không sủa.
Kha Trấn Ác thong thả đi đến trước miếu Thiết Thương, dỏng tai nghe, quả nhiên trong miếu có tiếng thở. Lão bèn gọi to:
– Lão độc vật kia, kẻ mù lòa này đến tìm ngươi, có giỏi thì mau ra đây.
Nói đoạn dộng mạnh cây thiết trượng xuống đất. Âu Dương Phong chỉ sợ hao tổn nguyên khí ở đan điền, không dám lên tiếng.
Kha Trấn Ác gọi mấy lần, không nghe tiếng trả lời, bèn dùng cây thiết trượng đẩy cửa miếu, bước vào, chỉ nghe “kịch” một tiếng, một vật nặng rơi trúng đầu, đồng thời chân trái đạp phải cái cọc nến, mũi cọc chọc thủng giày, đâm vào gan bàn chân đau nhói. Nhất thời chưa rõ nguyên do vì sao, lão vung cây thiết trượng đánh văng cái bát hương lớn trên đầu, ngả người ngồi phệt xuống đất, lăn một cái, để gan bàn chân khỏi bị đâm sâu, nào ngờ cạnh mình còn có mấy cái giá cắm nến nữa, có cái đâm vào vai, có cái đâm vào sườn đau điếng. Lão rút ra quẳng đi, máu chảy ra liền. Lúc này lão không dám coi thường, nghe tiếng thở của Âu Dương Phong, lão quơ bàn chân đi trước dò đường mà tiến từng bước một, khi còn cách Âu Dương Phong ba thước, thì lão vung cao cây thiết trượng, quát:
– Lão độc vật, hôm nay ngươi có gì để nói nữa không?
Âu Dương Phong đã dồn sức lực toàn thân vào cánh tay phải, chờ cây thiết trượng của đối phương đánh xuống, sẽ đẩy tay ra để đôi bên cùng chết. Kha Trấn Ác tuy biết kẻ thù bị trọng thương, song chưa biết rốt cuộc thương thế ra sao, cây thiết trượng chưa đánh xuống vội, chờ đối thủ phát chiêu trước sẽ biết đối thủ còn được bao nhiêu sức lực. Hai người cùng căng thẳng, cùng bất động.
Kha Trấn Ác nghe tiếng thở nặng nề của đối thủ, bỗng thấy hiện ra hình ảnh và giọng nói của năm huynh đệ kết nghĩa như Chu Thông, Hàn Bảo Câu, Nam Hi Nhân… tựa hồ họ thúc giục lão mau hạ thủ, thì lão không chờ thêm nữa, quát lớn một tiếng, sử chiêu “Tần vương tiên thạch”, vung cây thiết trượng bổ xuống. Âu Dương Phong khẽ né mình, đang định phát chưởng, cánh tay giơ lên nửa chừng thì hết sức, buông thõng ngay xuống. Chỉ nghe “cạch” một tiếng lớn, các tia lửa bắn tung tóe, đầu cây thiết trượng đập xuống nền gạch của miếu. Kha Trấn Ác đánh hụt, ra tiếp đòn thứ hai, cây thiết trượng quét ngang người đối phương, nếu là ngày thường, Âu Dương Phong chỉ khẽ hất tay cũng làm cho cây thiết trượng văng đi, nhưng hiện tại lão không còn chút hơi sức nào, đành ngã lăn xuống nền để tránh. Kha Trấn Ác sử dụng “Hàng ma trượng pháp”, ra chiêu liên tiếp. Âu Dương Phong càng tránh càng chậm, cuối cùng bị một đòn trúng vào vai trái.
Dương Quá ở bên cạnh thấy vậy rất muốn trợ giúp nghĩa phụ, nhưng tự biết võ nghệ thấp kém, xông vào chỉ tổ mất mạng.
Kha Trấn Ác giáng liền ba đòn trúng người Âu Dương Phong. Âu Dương Phong có nội lực phải nói là vô cùng thâm hậu, tuy không còn sức đánh trả, nhưng có thể tránh né hóa giải, làm cho mỗi đòn của đối phương đều trượt sang bên, cho nên tuy da thịt trầy xước, song gân cốt nội tạng không bị tổn thương. Kha Trấn Ác lấy làm lạ, nghĩ bụng lão độc vật kia bản lĩnh quả phi thường, mỗi đòn đánh tới, rõ ràng đều trúng, mà sao mười thành kình lực thì bị lão ta hóa giải đến chín thành, lần này phải liên tiếp giáng cây thiết trượng vào đầu lão ta, xem lão ta còn tránh nổi nữa chăng.
Âu Dương Phong né đầu mấy lần, thân mình đã bị trùm bởi trượng phong, thầm kêu khổ, nếu bị cây thiết trượng đập trúng đầu, thì còn gì là tính mạng. Trong lúc tuyệt vọng, bèn nhào tới, túm lấy ngực đối phương. Kha Trấn Ác giật mình, cây thiết trượng đã ở ngoài, khó lòng đánh địch, đành giơ tay đẩy ra. Hai người cùng ngã lăn.
Âu Dương Phong không dám buông tay, tay trái sờ eo lưng đối phương, đột nhiên chạm phải một vật cứng, bèn chộp lấy thì ra là một con dao nhọn. Con dao này Trương A Sinh thường gọi là Đồ ngưu đao. Là gọi thế thôi, chứ đâu có dùng để chọc tiết bò bao giờ. Con dao nhọn này sắc như nước. Từ khi Trương A Sinh bị chết bởi tay Trần Huyền Phong ở vùng sa mạc Mông Cổ, Kha Trấn Ác luôn nhớ đến nghĩa đệ, nên đeo Đồ ngưu đao ở bên mình, không lúc nào rời. Âu Dương Phong rút được con dao, xoay cổ tay đâm vào sườn đối phương. Lúc ấy, Kha Trấn Ác buông cây thiết trượng, hữu quyền vung ra, đấm cho Âu Dương Phong một quả lộn vòng tròn. Âu Dương Phong mặt mũi tối sầm, mơ hồ ném con dao về phía Kha Trấn Ác. Nghe tiếng gió, Kha Trấn Ác vội né tránh, bỗng “boong” một tiếng ngân nga, thì ra con dao ném trúng quả chuông trong điện. Lực ném tuy yếu, nhưng lưỡi dao quá bén, nên cắm vào chuông, thân dao vẫn rung rung.
Dương Quá đứng bên, lưỡi dao bay qua, suýt nữa chạm vào má cậu, cậu hoảng hồn vội leo lên cái giá treo chuông.
Âu Dương Phong chợt hiểu, liền bò ra sau quả chuông. Lúc này tiếng chuông còn ngân, Kha Trấn Ác không thể nghe thấy hơi thở của Âu Dương Phong, phải dỏng tai lên. Ánh trăng trong đại điện chiếu chếch, thấy lão đầu tóc rối bù, tay chống thiết trượng, nghênh nghênh mặt, trông rất đáng sợ. Dương Quá đã phát hiện điều quan trọng, cậu liền rút con dao khỏi quả chuông, dùng cán dao gõ liên hồi vào quả chuông để át tiếng thở của cậu và của Âu Dương Phong.
Kha Trấn Ác nghe tiếng chuông, nhào nhanh tới, thì Âu Dương Phong đã lánh ra sau quả chuông. Kha Trấn Ác phang thiết trượng một cái, trúng quả chuông, tiếng chuông vang lên lần này đúng là đinh tai nhức óc. Dương Quá cảm thấy màng nhĩ buôn buốt. Kha Trấn Ác thì cứ dùng thiết trượng gõ vào quả chuông, tiếng này chưa dứt, tiếng sau lại vang lên, càng lúc càng to. Âu Dương Phong nghĩ bụng nguy mất, nghe tiếng chuông thế này, Hoàng Dung sẽ đến tiếp viện. Bèn thừa cơ tiếng chuông len lén chuồn khỏi hậu điện. Ai ngờ Kha Trấn Ác thính tai kỳ lạ, giữa tiếng chuông lớn vẫn phân biệt được âm thanh nhỏ nhẹ, nghe thấy tiếng bước chân của Âu Dương Phong di chuyển, lão vờ như không biết, tiếp tục gõ chuông, chờ lúc Âu Dương Phong đi cách quả chuông dăm bước, lão mới bất ngờ nhảy ra chặn trước, vung thiết trượng đánh xuống đầu Âu Dương Phong.
Âu Dương Phong tuy mất hết sức, nhưng đời lão từng trải bao phen sóng gió, những trò hư hư thực thực lúc tiếp chiến, làm gì che nổi mắt lão? Thấy vai phải của Kha Trấn Ác hơi nhấc lên, lão đã biết ý định của đối phương, chờ kh thiết trượng vung lên, lão lại nấp vào phía sau quả chuông. Sau khi bị trọng thương, lão khó bề đi lại, nhưng lúc này chuyện sống chết chỉ trong gang tấc, tự dưng nội lực thâm hậu từ mấy chục năm bỗng phát ra, ngay lão cũng không ngờ.
Kha Trấn Ác cả giận, quát:
– Ta không đánh chết ngươi, thì cũng phải làm cho ngươi chết mệt mới được!
Liền đuổi quanh quả chuông.
Dương Quá thấy hai người chạy quanh quả chuông mấy vòng, nếu kéo dài, nghĩa phụ sẽ không còn sức, giữa lúc nguy cấp bèn nghĩ ra một kế, nằm trên giá treo chuông cứ múa tay liên tục. Âu Dương Phong đang chăm chú tránh né sự truy đuổi của kẻ địch, nên không nhìn thấy cậu, lại chạy thêm hai vòng nữa quanh quả chuông, mới thấy bóng Dương Quá hắt xuống đất, cậu bé đang cố ra hiệu bảo lão tránh đi. Lão chưa hiểu ý, nhưng nghĩ bụng nó đã bảo mình tránh đi, ắt có dụng ý, thế là lão bèn mạo hiểm chạy ra ngoài.
Kha Trấn Ác dừng bước bất động, muốn nhận biết hướng chạy của kẻ địch. Dương Quá liền tụt hai chiếc giày khỏi chân, ném ra phía hậu điện, “bạch bạch” hai tiếng, hai chiếc giày rơi xuống đất. Kha Trấn Ác lấy làm lạ, rõ ràng nghe Âu Dương Phong chạy ra phía cửa miếu, tại sao lại có tiếng động ở hậu điện? Trong lúc lão đang phân vân, thì Dương Quá dùng con dao nhọn chặt cái giá gỗ treo chuông. Cái giá thì to, sức chặt của Dương Quá thì yếu, con dao tuy sắc, nhưng chặt mấy nhát làm sao đã gãy được giá? Nhưng quả chuông quá nặng, cái giá treo bị chém lõm mấy nhát liền, cuối cùng chịu hết nổi sức nặng của quả chuông. Nghe “rắc rắc” mấy tiếng, cái giá treo chuông gãy hẳn, quả chuông khổng lồ ụp xuống đúng chỗ Kha Trấn Ác đang đứng.
Kha Trấn Ác sớm nghe thấy tiếng động lạ phía trên, đang lấy làm lạ lắm, thì quả chuông đã rơi xuống, vội giơ thẳng cây thiết trượng lên, nghe “kịch” một tiếng lớn, mép quả chuông đè trúng cây thiết trượng, Kha Trấn Ác thừa dịp lăn ra khỏi đáy chuông, chỉ nghe “sầm sầm” mấy tiếng cực mạnh, cây thiết trượng gãy đôi, quả chuông lăn nghiêng, hích mạnh vào vai Kha Trấn Ác, đẩy lão bắn ra ngoài cửa miếu, lão lộn mấy vòng liền, mũi chảy máu, trán bị rách một mảng to. Kha Trấn Ác không nhìn thấy gì, chẳng hiểu sự cố từ đâu mà ra, chỉ sợ trong miếu có quái vật linh thiêng gì chăng, đành bò dậy bỏ đi.
Âu Dương Phong ở bên nhìn thấy cũng không khỏi kinh ngạc, bất giác thốt lên:
– Ghê thật! Con ta giỏi thật, thông minh thật!
Dương Quá từ trên bò xuống, mừng rỡ nói:
– Lão mù sẽ không dám tới nữa.
Âu Dương Phong nói:
– Lão mù thù ta sâu hơn bể, lão còn hơi sức, thể nào cũng tìm đến.
Dương Quá nói:
– Thế thì chúng ta mau đi thôi.
Âu Dương Phong lắc đầu, nói:
– Ta bị thương rất nặng, không chạy xa được.
Cơn nguy cấp qua rồi, lão chợt cảm thấy chân tay rã rời, một bước cũng không lê nổi. Dương Quá vội hỏi:
– Thế thì phải làm sao?
Âu Dương Phong ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:
– Có cách này, con hãy chặt rơi nốt quả chuông kia xuống, để ta nấp bên trong quả chuông.
Dương Quá hỏi:
– Làm sao cha chui ra được?
Âu Dương Phong nói:
– Bảy ngày sau, khi ta phục hồi nguyên khí, ta sẽ tự có cách thoát ra. Trong bảy ngày đó, lão mù có tìm đến báo thù, cũng chẳng làm gì được ta. Chỉ cần cái con Hoàng Dung ấy không tới, thì chẳng có gì đáng ngại.
Dương Quá nghĩ thầm ngoài cách đó, chẳng còn cách nào khác, hỏi lại cho rõ, biết rằng nghĩa phụ hoàn toàn có thể ra khỏi quả chuông không cần ai giúp sức, lại hỏi:
– Suốt bảy ngày cha không ăn uống gì mà chịu nổi ư?
Âu Dương Phong nói.
– Con hãy kiếm cho ta một chậu nước trong, còn có vài cái bánh bao đây, thế là đủ sống bảy ngày.
Dương Quá vào bếp tìm được cái chậu nhỏ, đổ đầy nước, bưng lại, rồi dìu Âu Dương Phong leo lên ngồi lọt bên trong quả chuông thứ hai. Âu Dương Phong dặn:
– Con cứ đi theo Quách Tĩnh, ngày sau cha sẽ tự đến tìm con.
Dương Quá vâng lời, chém gãy cái giá treo chuông. Quả chuông rơi xuống, chụp kín Âu Dương Phong ở bên trong.
Dương Quá gọi “cha ơi” liền mấy lần, không thấy trả lời, nghĩ thầm nghĩa phụ ở trong quả chuông không thể nghe thấy, cậu đang tính bỏ đi, chợt nghĩ một kế. Cậu xuống bếp, tìm một cái chậu nhỏ đổ nước vào, đặt dưới đất, rồi trồng cây chuối, tay trái chống trong chậu nước, làm theo cách nghịch hành kinh mạch mà Âu Dương Phong đã dạy, dồn máu độc ra. Cách này rất mệt người, cậu chỉ đẩy được mười mấy giọt máu đen ra mà mồ hôi ướt đầm cả đầu tóc. Cậu ngồi nghỉ một lát, rồi xé mảnh vải buộc vào đầu cái ống thẻ, nhúng vào chậu nước hòa lẫn máu độc mà quét lên khắp quả chuông, để nếu lão mù Kha Trấn Ác có tới định lật ngửa quả chuông, sẽ bị trúng độc.
Lại nghĩ thầm nghĩa phụ ở trong quả chuông bảy ngày sẽ bị ngạt thở, bèn dùng con dao nhọn khoét một khe hổng rộng gần bằng nắm tay ở dưới nền gạch xanh, chỗ mép quả chuông. Dưới gạch là đá cứng, lưỡi dao bị gãy. Cậu không biết đây là con dao quý, nó chẳng phải của mình, gãy rồi thì vứt đi, rồi cậu phục xuống, nói vào cái khe hở:
– Cha ơi, con đi đây. Cha mau tới đón con nhé. Mặt ngoài quả chuông có chất độc, khi chui ra, cha nhớ cẩn thận đấy.
Rồi cậu ghé tai xuống khe hở, chỉ nghe thấy giọng nói yếu ớt của Âu Dương Phong:
– Con giỏi lắm, ta không sợ chất độc, chất độc phải sợ ta. Con cứ yên chí, ta nhất định sẽ tới đón con.
Dương Quá đứng một lúc, tần ngần lưu luyến, rồi mới chạy về khách điếm. Lúc leo tường vào, cậu rón rén, sợ Kha Trấn Ác phát hiện, nhưng lúc vào buồng cậu mới biết Kha Trấn Ác vẫn chưa về.
Sáng hôm sau, bỗng nghe có tiếng gậy gõ cồng cộc vào cánh cửa buồng. Dương Quá thức dậy, chạy ra mở cửa, thấy Kha Trấn Ác tay chống một cây gậy gỗ, mặt tái mét, vừa bước qua cửa thì ngã sấp xuống. Dương Quá thấy hai tay lão đen sì, quả nhiên lão lại tìm tới chỗ Âu Dương Phong, rốt cuộc đã trúng phải chất độc do cậu bố trí. Cậu mừng thầm, nhưng giả bộ kinh ngạc, gọi to:
– Đại công công, sao vậy?
Quách Tĩnh, Hoàng Dung nghe tiếng, chạy sang, thấy Kha Trấn Ác nằm dưới đất, thì cả kinh. Hiện thời Quách Tĩnh có thể đi lại được, nhưng không có sức, Hoàng Dung vội ôm Kha Trấn Ác đặt lên giường, hỏi:
– Đại sư phụ, sư phụ làm sao vậy?
Kha Trấn Ác lắc đầu, không nói. Hoàng Dung thấy lòng bàn tay sư phụ ám đen, thì tức giận nói:
– Lại là nữ tặc họ Lý. Quách Tĩnh ca ca, chờ thϊếp đi gặp nó.
Nói đoạn xiết dây thắt lưng, bước ra.
Kha Trấn Ác nói nhỏ:
– Không phải tại nữ nhân ấy.
Hoàng Dung dừng bước, quay lại hỏi:
– Vậy thì là ai?
Kha Trấn Ác cảm thấy đối với một kẻ không còn sức trói gà mà lão cũng không đối phó nổi, lại để bị thương thế này, thì quả là đồ vô tích sự. Lão cứ ngậm tăm, không chịu nói ra nguyên do tại sao lão bị thương. Hai vợ chồng Quách Tĩnh biết tính sư phụ, lão đã không muốn nói mà còn hỏi sẽ khiến cho lão tức giận. Vả lại, tình trạng trúng độc của lão cũng không nguy hiểm lắm, uống một viên “Cửu hoa ngọc lộ hoàn” sẽ đỡ liền.
Hoàng Dung nghĩ thầm, hiện thời Quách Tĩnh và Kha Trấn Ác bị thương, Lý Mạc Sầu thì hiểm độc khôn lường, trước tiên cần đưa hai người bị thương và hai đứa trẻ về Đào Hoa đảo, sau đó sẽ trở lại tính sổ. Buổi sáng nghỉ ở khách điếm, buổi chiều nàng thuê thuyền đi về hướng đông.
Dương Quá thấy Hoàng Dung không đi tìm Âu Dương Phong, thì mừng thầm, lại nghĩ: “Cha ta chỉ sợ Quách bá mẫu đến tìm, chẳng lẽ một đại mỹ nhân yêu kiều như Quách bá mẫu mà lại còn lợi hại hơn cả lão Kha Trấn Ác hay sao?”.
Thuyền đi nửa ngày, gần tối thì đậu lại bên bờ sông, nhà thuyền nổi lửa nấu cơm. Quách Phù thấy Dương Quá chẳng thèm để ý đến nó, nó vừa tức vừa buồn, đứng tựa mạn thuyền nhìn ra ngoài, bỗng thấy dưới một gốc liễu có hai đứa bé đang khóc sướt mướt, nhìn kỹ thì chính là hai anh em Võ Đôn Nhu và Võ Tu Văn. Quách Phù gọi to:
– Này, các cậu làm gì ở đó?
Võ Tu Văn ngoảnh đầu, trông thấy Quách Phù, thì đáp:
– Hai ta đang khóc, tiểu cô nương không thấy hay sao?
Quách Phù hỏi:
– Tại sao khóc? Bị mẹ đánh đòn à?
Võ Tu Văn trả lời:
– Mẹ ta vừa chết rồi!
Hoàng Dung nghe vậy, giật mình nhảy lên bờ, thấy hai cậu bé đặt tay lên thi thể người mẹ mà khóc một cách đau đớn. Võ tam nương mặt mày đen sạm, chết đã nhiều giờ. Hoàng Dung hỏi Võ Tam Thông đâu rồi, Võ Đôn Nhu nói:
– Phụ thân của điệt nhi không biết đi đâu ấy.
Võ Tu Văn nói:
– Mẫu thân điệt nhi hút chất độc ra cho phụ thân điệt nhi, hút ra bao nhiêu là chất độc. Phụ thân điệt nhi khỏi độc, thì mẫu thân điệt nhi lại bị chết. Phụ thân điệt nhi thấy mẫu thân điệt nhi chết, thì lại phát điên phát khùng. Chúng điệt nhi gọi mà phụ thân điệt nhi mặc kệ, cứ bỏ đi.
Nói rồi cậu bé lại khóc. Hoàng Dung nghĩ thầm: “Võ tam nương xả thân cứu phu quân, thật là một nữ nhân nghĩa liệt”, bèn hỏi: truyện được lấy tại TruyệnFULL.vn
– Hai điệt nhi có đói không?
Huynh đệ Võ Tu Văn gật đầu.
Hoàng Dung thở dài, bảo nhà thuyền đưa hai cậu bé xuống thuyền ăn cơm, vào trấn mua một cỗ quan tài, tối hôm ấy chưa kịp chôn cất Võ tam nương, sáng hôm sau mới mua một mảnh đất để mai táng. Huynh đệ Võ Tu Văn quỳ bên mộ khóc to.
Quách Tĩnh nói với vợ:
– Hai đứa trẻ này không còn cha mẹ, chúng ta đem về Đào Hoa đảo, từ nay nàng sẽ tốn thêm sức lo liệu cho chúng đó.
Hoàng Dung gật đầu, khuyên hai đứa trẻ, dẫn xuống thuyền, đi ra đến biển, thuê chiếc thuyền lớn mà ra Đào Hoa đảo ở biển Đông.
- 🏠 Home
- Kiếm Hiệp
- Truyện Nam
- Thần Điêu Hiệp Lữ
- Chương 11