Vất vả suốt ba ngày liền đã chép xong cả Nữ Huấn lẫn kinh Hồng Danh, ta thật sự cảm thấy mình rất phi thường. Phía Hoàng Hậu, ta giao Nữ Huấn cho Ngọc Thủy mang nộp, còn bản thân thì cùng Ngọc Nga đưa kinh Hồng Danh đi Thuận Ninh cung.
Lần thứ hai bước chân vào Thuận Ninh cung vẫn là một loại tâm trạng lo lắng bất an quấn lấy ta. Trong đầu ta không ngừng tưởng tượng ra đủ loại tình huống có thể xảy ra, đồng thời trù tính biện pháp đối phó.
Người đón chúng ta vào là Khâm cô cô. Nàng lúc nào cũng mang một vẻ mặt bình thản, không nóng không lạnh, đủ cung kính nhưng chẳng có chút bợ đỡ hèn mọn nào khiến người ta chẳng thể nào đoán được gì. Nữ tử này ngày xưa cũng từng có lúc là một tiểu cung nữ. Bao năm thăng trầm chìm nổi, rốt cuộc đã trải qua những chuyện như thế nào mới có thể tôi luyện được khí chất như vậy? Ta thầm nghĩ, nếu bên cạnh mình mà có một người như thế thì tốt biết bao nhiêu.
Mải nghĩ ngợi, ta không nhận ra mình đã dừng chân trước Phật đường của Thuận Ninh cung từ lúc nào.
"Lão Phật gia đang tụng kinh, nếu nương nương không ngại thì có thể cùng ngồi nghe kinh."
Khâm cô cô lễ phép làm động tác mời. Ta gật đầu đáp lại nàng một tiếng rồi nâng váy chậm rãi bước vào trong.
Phật đường không rộng lắm, khi ta vén màn đi sâu vào bên trong liền phát hiện nơi gọi là Phật đường này vốn chỉ là một căn phòng nho nhỏ, chính giữa bày một bàn thờ có hai tầng, tầng cao đặt tượng Quan Âm ngồi trên đài sen, bên dưới là vài cái bài vị không tên, chẳng biết thuộc về ai.
Thái Hậu ngự giữa Phật đường phía trước bàn thờ. Bà không quỳ mà ngồi duỗi chân trên một tấm bồ đoàn rất dày. Nghe nói bà có bệnh khớp kinh niên, đầu gối từ lâu đã không thể co lại được nữa. Từng làn khói xám mỏng manh tỏa ra từ chiếc lư hương trên bàn thờ như quấn lấy bóng lưng Thái Hậu, làm ta bất giác cảm thấy bà mới cô độc làm sao.
"Bởi vì không sở đắc, mới là Bồ Tát, gọi đủ là Bồ Đề Tát Đõa, nương nơi trí Bát Nhã để xét soi, mới đạt qua bên ngàn giác kia. Vì nương nơi Bát Nhã để quán chiếu, nên tâm không quái ngại; bởi tâm chẳng ngần ngại, nên chẳng có e sợ, xa lìa các điều điên đảo mộng tưởng, rốt ráo quả Niết Bàn..."
Giọng Thái Hậu hơi khàn, đều đều vang lên, mang theo phong vị xa xăm hư ảo. Ta nhận ra bà đang tụng kinh Hồng Danh sám hối.
Đảo mắt nhìn quanh, ta nhận ra ngoại trừ tấm bồ đoàn mà Thái Hậu đang ngồi thì mặt đất hoàn toàn trống trải, Khâm cô cô cũng đã rời đi tự bao giờ. Ta chợt hiểu ra ý tứ của Thái Hậu, bèn tiến lại phía sau bà, lặng lẽ điều chỉnh váy áo rồi quỳ xuống.
Ta từng nghe nói Thuận Ninh cung ngày xưa vốn là nơi ở của Phượng Triều Hoàng Hậu thời Thái Tổ. Phượng Triều tính rất sợ nóng, Tống Thái Tổ đã vì bà mà xây nên Thuận Ninh cung này, bốn bề đều làm từ loại cẩm thạch đặc biệt, chống nóng vô cùng tốt. Ngay cả sàn nhà cũng được làm từ một khối cẩm thạch hoàn chỉnh, cho nên dù đang là mùa hạ ta vẫn có thể cảm nhận được từng cơn lạnh buốt xuyên qua da thịt, truyền thẳng vào khớp gối của mình. Ban nãy khi quỳ xuống, ta đã cố tình lựa thế xếp váy thành mấy lớp ngay chỗ đầu gối tiếp xúc với sàn nhà để ngăn bớt cái lạnh, thế nhưng y phục mùa hè khá mỏng thành ra cũng chẳng chống đỡ được bao nhiêu.
Phía trước mặt ta, Thái Hậu vẫn tụng kinh đều đều, một lần, hai lần, lại ba lần kinh... Đến lúc đầu óc ta trở nên mông lung, không nhớ nổi đã đọc đến lần kinh thứ mấy thì Thái Hậu đột nhiên đứng dậy, như hơi ngạc nhiên:
"Hòa phi đấy à?"
Ta giật mình, vội vàng cúi lạy:
"Thần thϊếp Hòa phi bái kiến Lão Phật gia!"
Thái Hậu ừm một tiếng, vẫy tay bảo ta đứng dậy. Khâm cô cô nghe tiếng Thái Hậu nói, liền vội vàng đi vào đỡ lấy bà, cùng trở về Uyển các nghỉ ngơi. Ta thấy vậy cũng phải nhịn đau, tập tễnh đi theo.
Uyển các là nơi nghỉ của Thái Hậu, ta chẳng dám nhìn ngó lung tung, chỉ có cảm giác nơi này bày biện hết sức giản dị. Khâm cô cô đỡ Thái Hậu ngồi lên chiếc ghế quý phi bên cửa sổ, sau đó lui xuống pha trà. Trong phòng chỉ còn lại mình ta và Thái Hậu. Ta không biết nên nói gì, cũng không biết bà sẽ nói gì với mình, nên chỉ biết cúi đầu đứng một bên.
Thái Hậu chợt nói:
"Ai gia nhờ Hòa phi chép hộ mấy bản kinh Hồng Danh, không ngờ Hòa phi lại chép nhanh như thế."
Ta vội đáp:
"Bẩm, Lão Phật gia không chê thần thϊếp chữ nghĩa tệ hại đã là phước phần của thần thϊếp, thần thϊếp chỉ biết cố gắng hết mình."
Thái Hậu nhẹ nhàng trở mình, nở nụ cười:
"Vậy Hòa phi có biết vì sao ai gia lại bảo ngươi chép kinh Hồng Danh không?"
Hai bên thái dương đã bắt đầu đổ mồ hôi lạnh, ta hít sâu một hơi, lễ phép đáp:
"Thần thϊếp ngu muội, mong Lão Phật gia chỉ dạy."
Thái Hậu điềm đạm mỉm cười, nhưng trong ánh mắt chẳng có lấy một tia vui vẻ, bà cất giọng:
"Ngày Tiên Đế còn tại thế, trong hậu cung có một vị Chiêu nghi họ An. Nàng ta rất được Tiên Đế sủng ái, từng có lúc quấn quýt bên cạnh Tiên Đế như hình với bóng. Tiên Đế đi đâu cũng mang nàng ta theo, thậm chí cả khi vào Ngự Thư phòng duyệt tấu chương cũng để nàng ta ở bên châm trà mài mực."
Nói đến đây, Thái Hậu dừng lại, ngẩng đầu nhìn ta. Mồ hôi bên thái dương của ta vã ra càng lúc càng nhiều, nhưng ta nào dám đưa tay lau, chỉ cúi đầu ra vẻ lắng nghe. Thái Hậu thấy vậy, bèn nói tiếp:
"Ngày ấy An thị còn trẻ, có rất nhiều hành động nông nổi. Tiên Đế nhân từ chẳng trách tội nàng ta. Nhưng An thị ỷ sủng sinh kiêu, càng ngày càng trở nên quá đáng, đến cả chuyện triều chính cũng dám xen vào làm liên lụy nhiều người, cuối cùng chọc giận Tiên Đế. Ai gia nhớ ngày An thị bị lôi đi xử trảm cũng là một ngày cuối hạ như thế này... Thực đáng tiếc, An thị đó cũng là một nữ nhân thông minh, chỉ là quá mức kiêu ngạo mà quên đi bổn phận, cuối cùng rước họa diệt thân. Cứ mỗi năm đến độ này, ai gia lại nhớ đến An thị cho nên mới thay nàng ta tụng mấy lần kinh sám hối, hi vọng có thể giúp nàng ta giảm bớt tội lỗi, sớm phần siêu độ."
Ánh mắt Thái Hậu đột ngột trở nên sắc bén, hoàn toàn trái ngược với vẻ ngoài hiền hậu thường ngày. Tấm áo xám mộc mạc trên người bà cũng vì vậy mà trở nên lạc lõng. Giây phút ấy ta lập tức hiểu được, "Lão Phật gia" thật ra cũng chỉ là một danh xưng mà thôi.
"Tấm lòng của Lão Phật gia thật hiếm có, thần thϊếp vạn phần kính phục."
Ta mở miệng đáp một câu khách sáo.
Thái Hậu vẫn chăm chú nhìn, ánh mắt bà như một lưỡi dao sắc lẻm phe phẩy trên da mặt ta, như thể chỉ cần ta sơ sẩy một chút lập tức sẽ bị lưỡi dao kia đâm ngập vào da thịt. Thuận Ninh cung mát rượi thế mà thân thể ta không ngừng đổ mồ hôi, đến cả lưng áo cũng ướt đẫm, dính chặt vào da thịt, mang đến một cảm giác lạnh lẽo nhớp nháp.
"Ài... có đáng gì đâu. Ai gia già rồi, người già thường muốn làm việc gì đó có ý nghĩa một chút. Đáng tiếc... thân thể không còn khỏe mạnh, nên lực bất tòng tâm, chẳng làm được gì nhiều."
Thái Hậu thở dài một tiếng, đưa tay tự bóp đầu gối mình một cái. Ta thấy vậy, nhanh chóng quỳ xuống chân bà, nói:
"Nếu Lão Phật gia không chê thần thϊếp tay chân vụng về, xin để thần thϊếp giúp người xoa bóp một chút..."
Thái Hậu ừ khẽ một tiếng. Ta liền ngoan ngoãn xắn tay áo xoa bóp cho bà. Đầu gối bà gầy guộc một cách kì quái. Dựa vào độ biến dạng của các khớp xương, ta biết bệnh khớp của bà thật sự không nhẹ.
Vừa mới quỳ xong lại phải tiếp tục quỳ, nếu đầu gối ta mà biết nói thì hẳn nó sẽ đang kêu gào thảm thiết. Trong ba ngày liên tục chép mấy mươi bản kinh văn, cổ tay ta đã mỏi nhừ, bây giờ lại phải dùng lực xoa bóp nên cơn đau càng thêm thê thảm. Thế nhưng lúc này, ta làm gì có quyền than thở, việc ta nên làm chính là cố nhịn đau mà xoa bóp cho Thái Hậu thật cẩn thận.
Bầu không khí tĩnh lặng đến nặng nề ấy chỉ kết thúc khi Khâm cô cô mang trà vào. Thái Hậu nhận trà Khâm cô cô dâng nên, nhẹ nhàng nhấp một ngụm rồi mỉm cười với ta:
"Đây là trà Long Tỉnh mới tiến cung năm nay. Ai gia thấy mùi vị rất vừa miệng, Hòa phi cũng thử xem sao."
"Tạ ơn Lão Phật gia."
Khâm cô cô kéo một chiếc ghế nhỏ đến đặt ở bên chân Thái Hậu. Ta nhận trà xong, bèn tạ ơn thêm lần nữa rồi mới ngồi xuống. Cổ tay ta đau đến mức cầm chén trà cũng run rẩy, thành ra chỉ có một chén trà nhỏ mà ta phải kính cẩn cầm bằng cả hai tay.
Suốt từ lúc đó cho đến lúc ta ra về, Thái Hậu không hề đả động gì đến việc ta náo loạn Ngự Thư phòng, cũng không nhắc tới vị Chiêu nghi An thị kia nữa. Toàn bộ thời gian bà chỉ hỏi han những chuyện sinh hoạt thông thường trong Cẩm Tước cung, giống như quan tâm con cháu trong nhà.
Ta nhìn Khâm cô cô ở một bên bóp chân cho Thái Hậu, lại nhớ tới cơn đau ở đầu gối của mình, chợt hiểu ra nữ nhân trong hậu cung rất nhiều người bị bệnh khớp có lẽ vì quỳ gối là một trong những hình phạt phổ biến nhất.
Huệ Từ Thái Hậu có được một ngày phượng lâm thiên hạ như thế này, chắc chắn cũng đã nếm đủ đau thương tủi nhục. Đến bây giờ, dù cho vinh quang vô hạn nhưng một thân bệnh tật, quanh năm bị đau đớn dằn vặt, chuyện cũ như bóng ma ám ảnh, như vậy thực sự vui vẻ sao?