Cả gia đình ngồi quanh bàn trong phòng khách. Ánh sáng trắng dịu của cái đèn dầu hỏa treo trên cao chiếu xuống chén đĩa bàng bạc và thủy tinh sáng loáng, xuống khăn trải bàn như tuyết.
Vui quá nên Delie ăn rất ít; cô không thể rời mắt khỏi Adam đang ngồi bên kia bàn, mái tóc sáng chiếu ngời ánh đèn. Cô vẫn băn khoăn là tại sao Adam không giống cha cũng không giống mẹ.
Cậu cao lớn, rắn rõi, nước da sạm màu sáng, trên đôi má nổi đường máu đỏ, đôi mắt nâu vàng, tóc nâu nhạt thẳng và dày, lòa xòa xuống vầng trán rộng.
Ánh mắt cậu sáng, vẻ khỏe mạnh, và cái miệng trẻ con của cậu trông tựa hồ như dễ dỗi mà cũng dễ cười to.
Giờ đây, cậu cười ha hả, trông cậu hết sức quyển rũ.
Cậu nói to:
- Ăn nữa đi em! Ăn thêm một cái bánh bao nữa đi! Em phải béo hơn một tí, phải không má?
- Delie mơ màng chìa cái đĩa tới, Adam khiến cô sợ hãi với cái nhìn dịu dàng, không chú ý, và với cái vẻ cậu hiểu cuộc sống trong gia đình xoay quanh cậu- như trong hai tuần lễ tới.
Chiều, cô đi với cậu ra chái nhà để ôm củi.
Cả hai vào nhà bếp, giậm chân cho tuyết rơi xuống. Adam khom người nhóm lửa.
- Má anh có nói chiếc tàu em đi bị đắm.
Cậu đập mạnh củi vào lò sưởi, cô nhận thấy hai tai cậu đỏ ửng. Cô biết rằng cậu muốn nói lên ý thiện cảm vè sự mất mát của gia đình cô. Tim cô đập nhanh, cô lại có cảm giác kinh hãi hệt như mỗi lần cô cảm thấy có người muốn xen vào nỗi đau buồn riêng tư của cô.
Cô cố trả lời:
- Phải, em là…người sống sót duy nhất cùng với một bác thủy thủ. Nhưng em không muốn nói vè chuyện đó…xin anh hiểu cho.
- Anh biết, cô bé ạ!
Giọng nói của cậu êm dịu đến nỗi cô không tin rằng đó là đứa con trai hư, kiêu ngạo mà cô đã quan sát lúc ngồi bên kia bàn ăn. Cô cảm thấy mến cậu trong khi cậu ôm số củi còn lại mang vào phòng khách.
Lúc ấy vào đầu mùa xuân, những cơn gió ấm và ánh nắng sáng sủa, tuyết từ từ tan chảy. Bà Hester cũng bớt gắt gỏng, bớt khó khăn, bớt đòi hỏi, bà cho phép Delie đi trượt tuyết chung với dượng Charles và Adam.
Mười ngày sau, Adam trở lại Sydney, ngôi nhà dường như ảm đạm hơn, lặng lẽ hơn. Cô và người dì ngồi bên ánh đèn, cả hai cảm thấy cô đơn nhưng ít đối kháng với nhau hơn.
Ông Charles đi suốt ngày, cố tìm những cục vàng lúc nào cũng ẩn mình trong mảng đất bồi kế cận. Đít quần ông vàng ệch đất sét, giày ống của ông cũng đóng đất sét dày cui.
Đôi khi, ông để cô cầm cái lọ đựng bụi vàng mà ông lóng được sau nhiều tháng làm việc, hoặc một cục vàng nhỏ xíu.
Trước khi mớ tuyết cuối cùng tan hết, ông dẫn cô lên những sườn đồi và chỉ những khe nhỏ bắt đầu chảy dưới những cầu tuyết trống rỗng.
Ông nói:
- Trên các ngọn núi, có hàng trăm khe như thế này, tất cả đều chảy xuống để đổ vào những sông suối to hơn như dòng Ovens và dòng Tumut, khối tuyết này nơi dượng cháu mình đang đứng sẽ chảy mãi tới dòng Murrumbidgee để đổ và sông Murray.
- Sông Murray à? – cô nhớ mang máng những bài học địa lý về đế quốc Anh- Sông lớn nhất nước Úc phải không dượng?
- Phải, sông to lắm, tàu hơi nước chạy được, ngay từ cửa sông ngược lên New South Wales. Dượng đã đi một lần rồi, từ đồi Swan đến Morgan và đặc biệt lắm… Cả dì cháu cũng thấy đủ ấm và có nắng nữa.
Hai dượng cháu liếc nhìn nhau, thở dài và nhìn ra những sườn đồi, mặt trời chiều đang biến tuyết thành màu vàng, với những đám mây tuyệt đẹp…
Vẫn còn nhiều ánh sáng ban ngày, nhưng Hester lại bịnh và bẳn tính nên họ không dám ở lại lâu hơn. Họ lặng lẽ quay về nhà.