Quyển 1 - Chương 1

Về sau có một ngày, khi cây bồ đề vãng sinh trong cung Thái thần trổ đầy hoa, những chùm hoa tựa như đám mây trôi qua đầu tường, Đông Hoa nhớ lại lần đầu tiên gặp Phượng Cửu.

Khi đó, chàng không có ấn tượng gì về nàng. Là vị tôn thần ẩn mình vạn năm trong cung Thái Thần, có thể thu hút ít nhiều chú ý của chàng, chỉ có sự sai lệch của tứ mùa, thay đổi của nhật nguyệt và những sự trớ trêu của tạo hóa.

Mặc dù được Thiên Quân năm lần bảy lượt mời hạ cố rồi cung Thái Thần đi đón dâu cho thái tử Dạ Hoa, nhưng chàng hầu như không mấy bận tâm. Đương nhiên, cũng không nhớ lắm có thiếu nữ từ dưới biển Vãng Sinh đội sóng mà lên, có giọng nói trong trẻo như mưa bụi đầu xuân. Cũng không nhớ giọng nói trong trẻo, cố nén cười đó, hỏi Ti Mệnh: “Vị Tần Cơ nào ở núi Chung Hồ, thích tiểu thúc của ta thật ư?”.

Đông Hoa có chút ấn tượng với Phượng Cửu là ở trong yến tiệc thành hôn của Dạ Họa.

Đại hôn lễ của thái tử Thiên tộc, tân nương lại là thượng thần Bạch Thiển – người mà tứ hải bát hoang phải tôn kính gọi là cô cô, đương nhiên phải khác thường. Thần tiên trên Thiên giới phần thành cửu phẫm, trừ những vị thuộc Thiên tộc, may mắn được mời dự yến chỉ có mười vị chân hoàng, chân nhân[1] và hai, ba chục vị linh tiên ngũ phẩm trở lên.

[1] Chỉ người tu hành đắc đạo.

Điện Tử Thanh ráng mây sáng rực, khai yến cũng đã khá lâu.

Thiên Quân vốn kiêu ngạo, bất luận yến tiệc gì, qua ba tuần rượu sẽ mượn cớ tửu lượng kém cáo từ, cho dù tiệc cưới của cháu ruột cũng không ngoại lệ.

Còn tân lang Dạ Hoa, mình vận hỷ phục tửu lượng vốn kém, tối nay lại càng kém, rượu chưa quá ba tuần, đã phải nhờ một tiểu tiên dìu về cung Tẩy Ngô. Mặc dù Đông Hoa nhìn thấy, thái tử tân lang cơ hồ đã say đến tưởng chừng sắp ngất xỉu, nhưng lúc ra về, chân vẫn bước ngay ngắn, chẳng xiêu vẹo chút nào.

Nhị vị thần tiên vừa ra khỏi điện Tử Thanh không lâu thì mấy vị chân hoang cũng lần lượt tìm cớ cáo lui, các vị trưởng bối đã cáo từ, không khí bữa tiệc thoái mái không ít. Đông Hoa xoay chén rượu đã uống cạn trong tay, cũng định ra về, để cho các tiểu tiên bên dưới đang ngồi ngay ngắn, cố giữ lễ, được thoải mái thưởng thức yến tiệc.

Đang định hạ chén đứng lên, vừa ngước mắt chợt nhìn thấy ở cửa điện không biết từ lúc nào xuất hiện một chậu hoa câu tô ma. Đằng sau tán hoa vàng nhạt thấp thoáng bóng thiếu nữ áo trắng ẩn mình đang cúi đầu thắt lại đai lưng, một tay nâng váy, một tay bưng chậu hoa che mặt, nghiêng người lần theo chiếc cột ở góc tường, di chuyển từng bước về phía bàn tiệc.

Đông Hoa dựa vào thành ghế, tìm một tư thế thoải mái, lại ngồi xuống chiếc ghế màu vàng tía.

Trên võ đài vừa kết thúc một vũ khúc, thiếu nữ áo trắng va chỗ nọ đυ.ng chỗ kia, cuối cùng cũng tìm được một ghế trống, ló đầu ra thận trọng nhìn tứ phía, khi đã chắc chắn không bị ai chú ý, lại tinh nghịch ló mặt khỏi chậu hoa câu tô ma, thừa dịp mọi người đang nhìn lên vũ đài, vừa vỗ tay phụ hoa khen hay, vừa thò chân ra phía sau đá chậu hoa.

Không giấu được, phải đá đi.

Hay là không giấu được, mới đá đi.

Cú đá cuối cùng quá mạnh, cả chậu hoa câu tô ma xui xẻo, bay qua chân bàn vượt qua đầu các vũ nữ trên đài, bay thẳng về phía Đông Hoa lúc đó còn chưa kịp đứng lên ra về.

Chúng tiên kinh ngạc kêu một tiếng, chậu hoa dừng lại cách trán Đông Hoa ba tấc.

Đông Hoa một tay chống má, tay kia giơ ra bắt lấy chậu hoa, cúi nhìn về phía “thủ phạm”.

Ánh mắt của chúng tiên cũng theo ánh mắt của Đông Hoa nhất loạt dồn vào đó.

“Thủ phạm” ngây người một lát, lập tức ngoảnh sang, vừa thật thà vừa nghiêm túc hỏi vị tiên áo nâu bên cạnh: “Mê Cốc, sao ngươi nghịch ngợm thế, lại vô ý đá chậu hoa vào đầu người ta?”.

Sau bữa tiệc, tiểu tiên theo hầu Đông Hoa mới tiết lộ, thiếu nữ áo trắng, đầu cài hoa trắng tên là Phượng Cửu, là vị đế cơ nhỏ tuổi của Thanh Khâu.

Đại hôn lễ của thái tử Dạ Hoa tưng bừng náo nhiệt suốt bảy ngày.

Sau bảy ngày lại là lễ hội ngàn hoa mỗi giáp tổ chức một lần, do Liên Tống Quân đích thân chủ trì, vì vậy, rất nhiều vị thần tiên được mời dự tiệc cưới còn nán lại xem hội hoa, chưa vội ra về.

Cửu Trùng Thiên nổi tiếng thiêng liêng sạch sẽ bây giờ chẳng còn lại mấy nơi sạch sẽ, chỉ có ao Phấn Đà Lợi của Nhất Thập Tam Thiên được coi là nơi duy nhất còn sạch sẽ. Chắc vì ao này ở bên cạnh cung Thái Thần, cung điện của Đông Hoa nên chẳng có vị thần tiên dám đến gần quấy rầy.

Trong cái gọi là “không có vị thần tiên nào”, lại không bao gồm thượng thần Bạch Thiển mới về làm dâu Thiên Tộc.

Mười bảy tháng tư, tiết trời ấm áp, thượng thần Bạch Thiển giúp cháu gái Phượng Cửu mở hai bàn tiệc nhỏ để gặp gỡ các trang nam tử, tìm đấng phu quân tài giỏi, bàn tiệc lại đường hoàng bày biện trong lầu hóng mát trên ao Phấn Đà Lợi.

Thượng thần Bạch Thiển mười bốn vạn tuổi được gả cho thái tử Dạ Hoa, luôn cảm thấy mình xuất giá vào tuổi ấy là thích hợp nhất, nên không khỏi lấy mình làm chuẩn để đánh giá người khác, suy đi tính lại, vẫn cảm thấy Phượng Cửu mới ba vạn tuổi quả thực vẫn còn nhỏ, chưa thích hợp để tính chuyện hôn nhân nhưng nàng đã được nhị ca Bạch Dịch, phụ thân của Phượng Cửu nhờ vả, nên không tiện từ chối, chỉ có thể hết lòng giúp cô cháu mở bữa tiệc gặp mặt xem có nam tử nào lọt vào mắt xanh hay không.

Nhưng dạo này Cửu Trùng Thiên rất náo nhiệt, chẳng có chỗ nào thích hợp để mở một bàn tiệc nhỏ lịch sự, trang nhã. Nghe nói Đông Hoa Đế Quân thường ngày luôn ẩn mình trong cung Thái Thần e cũng chẳng bận tâm, Bạch Thiển suy nghĩ hồi lâu, quyết định bày tiệc bên bờ ao Phấn Đà Lợi cạnh cung Thái Thần.

Hôm đó lại có hai trang nam tử ra mắt.

Tuy nhiên, hôm đó mọi người đều tính nhầm. Đông Hoa không chỉ ra khỏi cung, mà còn ở ngay bên ngoài cung. Chỉ cách chỗ bày tiệc chừng năm mươi bước, nhưng bị cây liễu sum suê bên bờ ao che khuất, thư thái nằm trên ghế trúc, dưới chân là chiếc cần câu bằng trúc tím, cuốn kinh thư che mặt, vừa nhắm mắt vừa ung dung chờ cá cắn câu.

Phượng Cửu thưởng thức xong điểm tâm, uống một tách trà, vui vẻ nhảy chân sáo đến Nhất Thập Tam Thiên.

Giữa làn nước xanh biếc nổi lên vô vàn đóa sen, đóa hoa nối nhau trải dài vô tận, hoa trắng muốt như mây, giống hệt bức gấm sen thêu nổi.

Bên cạnh bàn tiệc đã có một vì thần thanh y nho nhã, thư thả phe phẩy chiếc quạt trong tay, thấy nàng chầm chậm đi đến, gập chiếc quạt một tiếng, nheo mắt cười.

Thực ra Phượng Cửu cũng không quen vị thần này, chỉ biết là thiếu chủ nào đó của một chỉ trong Thiên tộc, tĩnh tu ở tiên sơn nào đó nơi Phàm thế, tính tình cởi mở hòa nhã. Nếu nói đến nhược điểm, chàng chỉ có một nhược điểm là quá ưa sạch sẽ, không mấy tuân thủ lễ nghĩa giờ giấc. Vì thế, nàng cố tình đến trễ nửa canh giờ.

Bữa tiệc này cũng chỉ là tiểu yến, không quá khách sáo lễ nghi, hai người ngồi hàn huyên một hồi.

Đông Hoa nằm khuất sau sau cây liễu gần đó, bị quấy rầy bởi những lời to nhỏ kia, giơ tay nhấc cuốn kinh thư trên mặt, nhìn ra, thấy cách một gốc dương liễu chừng hơn năm mươi bước, Phượng Cửu hơi nghiêng đầu, cau mày nhìn khay gỗ hình rẻ quạt trước mặt.

Khay bày trí rất đẹp mắt, có một bầu rượu bằng ngọc Đông Lăng cũng vài món ăn màu sắc sặc sỡ.

Tiểu yến trên Thiên giới đã có lệ, mỗi khách một khay, thức ăn màu sắc như nhau, nhưng rượu được phân theo phẩm vị của từng người.

Vị thần áo xanh gập chiếc quạt, gợi chuyện: “Khéo thật, gia tộc của tiểu tiên từ thượng cổ chuyên quản lễ nghi, tu luyện của Thần tộc, trước đây có nghe thượng thần Bạch Thiển nói, trong việc lễ giáo Phượng Cửu điện hạ cũng …”.

Bốn chữ “không mấy tuân thủ” còn chưa kịp thốt ra, Phượng Cửu ngồi đối diện đã nhanh như gió, giải quyết xong một đĩa chân giò, vừa dùng đũa gạt nốt chỗ nước xốt cuối cùng trong đĩa, vừa nấc vừa hỏi: “Cũng cái gì cơ?”.

Trên khóe miệng còn dính chút nước xốt.

Vị thần áo xanh thông thạo lễ giáo kia sửng sốt nhìn nàng.

Phượng Cửu lấy trong tay áo ra chiếc gương nhỏ, vừa mở gương vừa lẩm bẩm nói: “Trên mặt ta có gì ư?”.

Nàng ngừng lại một chút: “A, đúng là có thật”.

Vậy là lấy ngay tay áo đưa lên chùi miệng. Ống tay áo trắng muốt lập tức bị dính vệt mỡ hồng hồng.

Gương mặt vị thần áo xanh ưa sạch sẽ bỗng tái xanh.

Phượng Cửu đưa gương lên soi, soi xong lại coi như không có gì xảy ra, thản nhiên nhét vào trong tay áo, có lẽ trên tay còn dính ít dầu mỡ nên khung gương bằng gỗ đàn hương cũng bị dính lem nhem.

Mặt vị thần áo xanh tím ngắt.

Đúng lúc hai giọt nước xốt từ đầu đũa nhỏ xuống, rớt trên bàn đá.

Phượng Cửu cắn đũa, dùng ngón tay quệt, quệt không sạch, dứt khoát lấy ngay ống tay áo lau, lần này sạch ngay.

Bàn tay cầm khăn lụa chìa ra cho nàng, khựng lại lơ lửng trên không.

Hai người nhìn nhau một hồi, vị thần áo xanh mặt đã chuyển sang màu đen, khan giọng nói: “Điện hạ cứ từ từ dùng, tiểu tiên còn có chút việc, xin phép đi trước, hôm khác lại hầu chuyện điện hạ”. Vừa dứt lời, đã sải bước thật nhanh, như chạy trốn.

Đông Hoa bỏ quyển kinh thư trên mặt xuống, thấy Phượng Cửu tay cầm đũa vẫy quyến luyến cáo biệt, trong đôi mắt sáng ngời chẳng có gì lưu luyến, lại còn long lanh giễu cợt, giọng nói rè rè như bị bóp cổ: “Vậy hôm khác tái ngộ, đừng để người ta chờ lâu quá…”. Đến khi vị thần áo xanh kia biến mất, Phượng Cửu mới cười khúc khích, thong thả rút chiếc khăn mùi soa trắng thêu hoa trong tay áo, thong thả chùi tay, rồi lau vết mỡ trên ống tay áo.

Suốt hai trăm năm qua chuyện thế này đã gặp rất nhiều, tài xua đuổi thần tiên muốn kết thân với Thanh Khâu của Phượng Cửu điện hạ có thể nói là đã đạt đến độ thần thông. Vị thần thứ hai lúc đến cũng tràn đầy hứng khởi, lúc đi cũng chuồn thật nhanh như bị ma đuổi, để lại chén, bát ngổn ngang trên bàn, trong mắt dường như còn phản chiếu ánh nắng nhuộm mày mỡ loang loáng.

Chưa đến một canh giờ, ăn hết hai đĩa chân giò, thấy bụng đầy anh ách, Phượng Cửu cầm chén trà quay về phía bờ ao Phấn Đà Lợi, vừa chiêm ngưỡng vẻ uy nghiêm tráng lệ của cung Thái Thần, vừa tiêu hóa thức ăn. Đông Hoa Đế Quân phía kia hình như có hai con cá nhỏ cắn câu, cuốn kinh thư trên tay cũng được giở nhanh đến trang cuối cùng, ngước nhìn trời thấy nắng mỗi lúc càng gay gắt, liền dọn đồ hồi cung, ngang nhiên đi qua tiểu yến tiệc bên bờ ao.

Phượng Cửu trầm ngâm cầm chén trà, bộ dạng như một bà lão, nghe thấy bước chân thong thả sau lưng, tưởng là Mê Cốc vốn còn lụ khụ hơn ông lão, sực tỉnh nói: “Sao đến sớm thế, sợ ta đánh nhau với bọn họ chăng?”. Nói đoạn ngồi dịch sang ghế bên, lẩm bẩm: “Khẩu vị của cô cô gần đây đến là kỳ quái, chọn được hai đám giống như mèo hen, ta cũng chẳng nhẫn tâm đấm cho họ vài quả, lừa họ mấy câu khiến hai vị đại thần hoảng sợ chạy mất tăm rồi, có điều ta đang mệt muốn chết đây”. Nàng bưng cốc trà ngẩn ngơ, “Ngươi ngồi đây với ta một lúc, lâu lắm rồi không được thấy mặt trời mọc, lặn ở đây, lại thấy nhớ nhớ”.

Đông Hoa dừng bước, thấy Phượng Cửu vừa dứt lời liền ngồi xuống ngay sau nàng, tiện tay nhấc chén trà trên bàn, nhấp một ngụm.

Phượng Cửu yên lặng một lúc, tâm trí nhất thời bị cuốn hút bởi ao sen trắng, long xao xuyến, xoay chiếc cốc trong tay giọng mơ màng: “Người ta bảo, mỗi bông sen trắng ở ao Phấn Đà Lợi này đều là do lòng người biến thành, những người chúng ta quen mặc dù không có ai là người phàm, nhưng Mê Cốc, ngươi nói xem, có phải Thanh Đề cũng là một bông sen trắng ở đây?”. Dường như nghĩ tới điều gì, “Nếu đúng, ngươi nói thử xem là bông nào?”. Rồi lại thở dài thường thượt như bà lão, “Người như chàng …”. Cùng với tiếng thở dài, lại nhấp một ngụm trà.

Đông Hoa cũng cúi đầu nhấp thêm ngụm trà, chàng láng máng nhớ ra Mê Cốc hình như là vị địa tiên thường đi cùng Phượng Cửu, xem ra nàng đã nhận nhầm người, Thanh Đề là ai, chàng chưa từng nghe nói.

Bóng cây đổ xuống, hai chân Phượng Cửu gác lên bờ ao, thủng thẳng nói: “Nửa tháng trước, Tô Mạch Diệp ở Tây Hải mới mời tiểu thúc ta đến uống rượu, ta cũng đòi đi theo, lúc cưỡi mây trắng qua trần thế đó…”. Dừng một lát, lại tiếp: “Thì ra triều Tấn đã diệt vong, chính vào năm thứ bảy sau khi Thanh Đề qua đời”. Ngập ngừng rồi lại tiếp, “Ta đã sớm nhận ra triều đại đó không thể tồn tại lâu”. Lại thở dài, quay đầu, rót thêm trà, miệng còn lầm bầm, “Nghe nói loại trà Tô Mạch Diệp mới chế, tên là gì nhỉ. À, Bích Phù Xuân, cũng khá, sau này ngươi đan giúp ta một cái sọt tre, lần sau đi Tây Hải, ta…”, vừa ngẩng đầu, câu nói mắc trong họng, nghẹn cứng, rồi kéo theo một cơn ho sặc sụa, ho xong tay vẫn còn giữ ấm trà chưa kịp rót, im bặt không nói gì nữa.

Ngón tay thon dài của Đông Hoa đặt dưới nắp chén trà men sứ màu lam nhạt, lấp lánh dưới ánh mặt trời, dường như cũng lóng lánh phát sáng. Ánh mắt tĩnh lặng như vô tình dừng trên cánh tay áo dính đầy nước xốt của Phượng Cửu rồi lại thư thả dời đi, chàng cảm thấy gương mặt ửng hồng của nàng đã đỏ mọng vì ho, giống sắc lá hồng diệp của Hỷ Thiện Thiên.

Dường như đã lấy lại tinh thần, khuôn mặt Phượng Cửu từ từ nở một nụ cười, mặc dù hơi thiếu tự nhiên, nhưng là một nụ cười thật sự, khách khí mở lời trước, khách khí thỉnh an: “Không biết Đế Quân ở đây, tiếp đón không được chu đáo, Thanh Khâu Phượng Cửu bái kiến Đế Quân”.

Đông Hoa nghe xong lời thỉnh an, ngước mắt nhìn nàng, nói mời ngồi, chờ nàng cúi đầu bước đến ngồi xuống ghế, chàng mới mở nắp chén trà vừa chậm rãi nói: “Nhìn thấy ta, nàng ngạc nhiên lắm sao?”.

Phượng Cửu vừa rồi y lời bước đến, coi như biết tiến lùi vừa phải, lúc này lại như ngạc nhiên thật sự, ngẩng đầu, môi mấp máy, nhưng vẫn nở một nụ cười khách khí xa cách: “Lại được gặp Đế Quân, lòng mừng khôn xiết, không ngờ lại khiến Đế Quân chê cười”.

Đông Hoa gật đầu, coi như thừa nhận câu chào của nàng, mặc dù vốn tinh mắt đã nhận ra nụ cười đó khó tìm thấy cái gọi là “vui mừng khôn xiết”, chàng vẫn cầm ấm rót thêm trà cho nàng.

Hai người cứ ngồi như vậy, nhìn nhau không nói, quá thật hơi có chút ngượng ngập. Chớp mắt Phượng Cửu đã uống hết cốc trà, đưa tay cầm quai ấm làm như chuẩn bị rót thêm cho mình. Đông Hoa ngước mắt nhìn, thấy cốc trà không hiểu sao hơi nghiêng, cốc trà nóng vừa rót đầy đổ thẳng vào vạt áo trắng muốt của nàng, để lại một vết ố lớn.

Đông Hoa vẫn đặt tay trên bàn đá, mắt nhìn nàng không chớp.

Chàng chẳng qua nhất thời nổi hứng, nhìn nàng thư thái ngắm mặt trời mọc có vẻ rất say sưa, chàng đã tưởng từ vị trí đó nhìn ra được phong cảnh đặc sắc nào, lại thấy nàng mới ngồi, liền tiện thể ghé lại. Lúc này bỗng thấy hứng thú thật sự, cho là nàng rất biết diễn trò, có lẽ tưởng chàng là người muốn lân la kết thân nhưng còn ngại thân phận của chàng, không thể tùy ý đuổi khéo như hai vị kia, cho nên mới thông minh dùng khổ nhục kế, định kiếm cớ bỏ đi, chỗ trà đổ lên vạt áo vẫn còn bốc khói, chứng tỏ nó rất nóng, quả là nàng rất bạo gan.

Đông Hoa chống cằm ngồi yên, thầm nghĩ, bước tiếp theo có phải nàng định rút lui, quả nhiên thấy Phượng Cửu hai ba lần giũ vết trà trên áo, đương nhiên không giữ được, vậy là ngần ngại, cung kính, khách khí, xa cách lại không giấu được niềm vui trong mắt, đứng lên cáo biệt: “Ôi, nhất thời sơ ý, làm chuyện thất lễ, Phượng Cửu xin phép được cáo lui, hôm khác sẽ thỉnh giáo Đế Quân về Phật lý, đạo pháp”.

Hương sen thanh khiết theo gió thoảng qua, Đông Hoa ngước rèm mi, đưa ấm trà cho nàng, thong thả nói: “Chỉ một cốc trà có là gì, dùng luôn cả ấm này đi, vừa rồi đã qua tay ta, nguội đi nhiều, đổ hết lên xiêm áo của nàng lần nữa, như thế mới thật là thất lễ”.

“…”.

Đông Hoa Đế Quân ở ẩn trong cung Thái Thần, xa lánh thế sự đã lâu, các vị thần trẻ tuổi không có cơ duyên chứng kiến tài châm biếm sâu cay của chàng nhưng các vị tiền bối thì chẳng ai quên được. Đông Hoa mặc dù luôn ít nói, nhưng lời nào nói ra cũng sắc như thanh kiếm trong tay chàng.

Tương truyện một vị thiếu chủ khá hung hăng của Ma tộc, đọc thấy chiến tích của Đông Hoa ghi trong sử kinh viễn cổ, năm đó hùng dũng xông vào Cửu Trùng Thiên tìm Đông Hoa thách đấu một phen. Kết quả vừa đến ngay cổng cung Thái Thần đã bị thị vệ phục tứ phía tóm ngay.

Lúc đó Đông Hoa đang ngồi bên ao sen cách đó không xa, chơi cờ một mình.

Thiếu chủ trẻ tuổi hăng máu, dù bị bắt vẫn lớn tiếng khıêυ khí©h.

Đông Hoa cầm bàn cờ, đi ngang qua, thiếu chủ càng ngang ngược, gào to, rằng nghe đồn Thiên tộc xưa nay nổi tiếng trọng đạo đức, không ngờ hôm nay vừa gặp lại bị đối xử thế này, Đông Hoa nếu còn chút đạo đức lương tri thì hãy ra đây giao đấu tay đôi với ta, chớ nên phái thuộc hạ cậy số đông ức hϊếp một người …

Đông Hoa cầm hộp cờ, đi tới rồi lại lùi lại hai bước, hỏi thiếu chủ đang phục trên đất: “Ngươi nói, đạo … gì?”.

Thiếu chủ nghiến răng: “Đạo đức!”. Lại hét to nhắc lại: “Ta nói là đạo đức!”.

Đông Hoa nhón chân đi về phía trước: “Đó là cái gì? Chưa từng nghe nói”. Thiếu chủ uất quá ngất tại trận.

Ba ngày sau Phượng Cửu mới nhớ ra điển cố này, lúc ấy nàng đang ở điện Khánh Vân, xem cô cô của nàng giáo dưỡng nhi tử.

Điện Khánh Vân là chỗ ở tiểu tôn A Ly, cốt nhục của thượng thần Bạch Thiển với thái tử Dạ Hoa, mọi người thường gọi là Cục bột nhỏ.

Tiểu thiên tôn thân vận hoàng bào ngồi đối diện mẫu thân, thấy người lớn ngồi trên ghế hai chân chạm đất, chân mình lại chỉ có thể lơ lững đung đưa, nên cố gắng thử chạm tới đất, nhưng chân thì ngắn, ghế lại cao, cố một hồi mũi chân cũng không chạm tới, mặt ỉu xìu cúi cái đầu nhỏ bé, nghe mẫu thân giáo huấn.

Bạch Thiển nghiêm nghị, lời lẽ thống thiết: “Mẫu thân nghe nói phụ thân con mười mấy tuổi đã đọc thuộc ‘Đại tát già ni kiền tử sở thuyết kinh’, ‘Thắng tư duy phạn thiên sở vấn kinh’, ‘Đế ly tam vị da bất động tôn uy nộ vương sử giả niệm tụng pháp’, tại sao lại sinh ra con như vậy, đã hơn năm trăm năm tuổi rồi, ngay cả ‘Tuệ lân âm nghĩa’ cũng đọc không xong, dĩ nhiên … đọc không xong cũng không phải là chuyện lớn, nhưng con cũng không thể làm xấu mặt ta và phụ thân con”.

Cục bột nhỏ phụng phịu phản bác rất có lý: “A Ly cũng không muốn như vậy, nhưng đầu óc A Ly, là di truyền từ mẫu thân chứ không phải từ phụ thân!”.

Phượng Cửu bật cười, phun cả ngụm trà trong miệng ra, Bạch Thiển nhíu mày, ý tứ nhìn nàng, Phượng Cửu khổ sở nén cười, vội vàng xua tay giải thích: “Không có ý gì, chỉ là dạo này tiêu hóa kém, hai người cứ tiếp tục, cứ tiếp tục”.

Khi ánh mắt Bạch Thiển quay lại nhìn Cục bột nhỏ, không hiểu sao, Phượng Cửu đột nhiên nhớ đến câu chuyện Đông Hoa Đế Quân khiến vị thiếu chủ của Ma tộc kia uất ức ngất xỉu. Cầm tách trà lên lại uống một ngụm, ánh mắt lại như cười, cúi nhìn xiêm áo trắng muốt trên người, nụ cười lập tức tan biến, giơ tay phủi sợi tóc vương trên tay áo.

Nỗi phiền muộn ở đời cũng nhiều như tóc trên đầu, không sao đếm xuể, để bụng từng chuyện không phải tại tính cách của nàng. Phượng Cửu miên man hồi tưởng, thời gian như nước chảy, tính ra cũng đã hai ngàn bảy trăm năm, có quá nhiều chuyện xảy ra trong quãng đời dài đặc đó, rất nhiều chuyện còn nhớ, rất nhiều chuyện trước đây vẫn nhớ, nhưng giờ lại không muốn nhớ, nhớ nhớ quên quên, những gì nhớ được cũng trở thành quên lãng.

Ẩn dật ở Thanh Khâu hơn hai trăm năm nay không hẳn được yên tĩnh, nhưng trong hai trăm năm này cũng rất khó để nàng nhớ đến Đông Hoa, khi đến Cửu Trùng Thiên, vô tình gặp lại. Nhìn thấy Đông Hoa, nhưng chàng không nhận ra mình, nàng âm thầm nghĩ, như vậy cũng tốt.

Nàng với Đông Hoa, có lẽ ứng với câu Phật ngữ kia, nói không được, nói không được, nói nhiều là sai, nói nhiều là họa.

2.

Hôm nay là ngày cuối cùng của lễ hội ngàn hoa do tam điện hạ Liên Tống chủ trì, theo thông lệ, cũng chính là ngày ngàn hoa đua sắc rực rỡ nhất. Nghe nói mấy vị Phật ở Tây Phương Phạn Cảnh cũng vượt ngàn dặm xa xôi đến tham dự, mang theo một vài loài hoa hiếm của chốn Linh Sơn mà ngày thường không thể nhìn thấy, Cửu Trùng Thiên bỗng chốc trở nên đông vui náo nhiệt, ngay các thần tiên có phẩm vị cao cũng đến góp vui.

Phượng Cửu xưa nay thực ra không mấy hứng thú với các loài hoa cỏ, may mà để chúc mừng hôn lễ của thái tử Thiên tộc, chủ nhân ngọn tiên sơn nào đó dưới Hạ giới có nhã ý trình lên mấy ca nữ biết diễn kịch, lúc này đang do Mê Cốc phụ trách, sẽ diễn ra một đoạn trong vở ‘Giai nhân tướng quân’ ở Thừa Thiên Đài của Thất Trùng Thiên.

Phượng Cửu cầm túi hạt dưa, dắt tay chiếc bình mũm mĩm đi qua thiên môn Thất Trùng Thiên vào xem kịch.

Chiếc bình trẳng trẻo mũm mĩm đó chính là biểu đệ duy nhất của nàng, Cục bột nhỏ A Ly.

Thiên môn Thất Trùng Thiên cao vời vợi, sum suê cây lá, Đông Hoa Đế Quân chỉ thoáng xuất hiện trong lễ hội ngàn hoa rồi lặng lẽ rút lui, đang ngồi trước Diệu Hoa Kính pha trà, đọc sách.

Diệu Hoa Kính là một trong những thánh đại của Thất Trùng Thiên, tuy nói là kính, thực ra là một thác nước, trong đại ngàn thế giới có vô vàn phàm thế, nếu đủ pháp lực, có thể nhìn vào kính mà quan sát sự đổi thay hưng suy của những phàm thế dưới trần gian.

Bởi thác nước này linh khí rất vượng, các thần tiên bình thường không chịu nổi, ngay cả mấy vị chân hoàng ở đây lâu cũng choáng váng đầu óc, vì vậy nhiều năm qua chỉ có mình Đông Hoa Đế Quân lấy nơi này làm chỗ nghỉ ngơi, đọc sách, câu cá.

Phượng Cửu dẫn Cục bột nhỏ đi thẳng qua Thất Trùng Thiên, dặn nó: “Đi sát vào tỷ, đừng đến gần Diệu Hoa Kính bên kia, coi chừng bị linh khí gây bỏng”.

Cục bột nhỏ vừa vâng lời đi sát vào một chút, vừa giận dỗi đá những viên sỏi trên đường, phụng phịu: “Phụ thân rất xấu, đệ nhớ rõ ràng tối qua đệ ngủ cùng mẫu thân ở điện Trường Thăng, sáng nay tỉnh giấc lại thấy đệ ở điện Khánh Vân của đệ, phụ thân lừa đệ, nói là đệ mộng du tự đi về”. Nói đoạn nhún vai tỏ vẻ bất lực: “Rõ ràng là phụ thân muốn độc chiếm mẫu thân nên thừa dịp đệ ngủ, bế đệ về điện Khánh Vân, lừa cả đích tử, phụ thân đúng là không từ thủ đoạn”.

Phượng Cửu tung hứng túi hạt dưa trong tay hỏi: “Vậy sao lúc tỉnh dậy đệ không chạy ngay đến điện Trường Thăng gào khóc ầm ĩ cho họ biết? Đệ quá sơ suất rồi”.

Cục bột nhỏ tỏ vẻ kinh ngạc: “Đệ nghe nói chỉ nữ nhi mới có thể một là khóc, hay là làm ầm ĩ, ba là treo cổ”. Rồi lẩm bẩm: “Thì… thì ra nam nhi cũng có thể ư?”.

Phượng Cửu vẫn chơi trò tung hứng túi hạt dưa, liếc nhìn Cục bột nhỏ, trịnh trọng trả lời: “Có thể chứ, tiểu nam nhi, đó là pháp bảo mà tất cả tiên giới đều chung hưởng”.

Đông Hoa chống cằm nhìn bóng hai người mỗi lúc một xa, một cuốn sách giải trí đặt bên cạnh, trong Diệu Hoa Kinh phong vân biến đổi, binh mã đao kiếm ầm ầm một phen, vậy là trần thế nào đó thế sự hưng suy đã diễn xong, trên bàn đá ấm trà cũng bắt đầu sôi.

Từ thiên môn của Thập Trùng Thiên đến Thừa Thiên Đài nơi diễn kịch vẫn còn một đoạn đường dài.

Đi đến hòn giả sơn, Cục bột nhỏ đòi nghỉ chân. Hai người vừa ngồi xuống, đã thấy trên không lóe lên một tia sáng bạc chói mắt, trong tia sáng đó thấp thoáng một cỗ xe ngựa phóng như bay, bánh xe lăn qua những đám mây vỡ vụn, bắn tung như những cánh hoa bông trắng xóa, gió mang đến hương thơm ngào ngạt của hoa núi.

Cỗ xe ngựa đó có lẽ là của một vị tôn thần ở tiên sơn nào đó dưới Hạ giới lên Thiên giới xem lễ hội ngàn hoa.

Cỗ xe ngựa chớp mắt đã biến mất, hình như đi về hướng Bát Trùng Thiên, phía sau ngọn núi giả bỗng có tiếng nói, hình như là hai thị nữ đang trò chuyện.

Một người nói: “Người đánh cỗ xe vừa rồi chẳng phải là công chúa Tri Hạc, nghĩa muội của Đông Hoa Đế Quân sao?”.

Người kia thong thả đáp: “Kiểu phô trương như vậy, cũng hơi giống, thời gian trôi qua nhanh quá, tính ra công chúa bị đày xuống Hạ giới đã ba trăm năm”.

Người thứ nhất lại hỏi: “Vậy cớ sao nàng bị Thiên Quân lưu đày? Năm đó tỷ hầu hạ ở Thập Tam Thiên, có biết nguồn cơn không?”.

Người kia sau một hồi trầm ngâm, hạ giọng nói nhỏ: “Cũng không rõ lắm. Nhưng, năm ấy có rất nhiều chuyện xảy ra. Nghe nói trưởng công chúa Ma tộc được gả vào cung Thái Thần nhưng vì công chúa Tri Hạc đem lòng ái mộ Đông Hoa Đế Quân gây trở ngại, cuối cùng hỷ sự không thành. Thiên Quân biết chuyện nổi cơn thịnh nộ, liền hạ lệnh lưu đày công chúa Tri Hạc xuống hạ giới”.

Người thứ nhất hoảng hốt: “Ý tỷ là, gả vào cung Thái Thần? Gả cho Đế Quân ư? Tại sao trên Thiên giới chưa từng nghe chuyện này? Chẳng phải Đế Quân xưa nay không dính chuyện hồng trần cơ mà?”.

Người kia lại nhẹ nhàng giải thích: “Ma tộc muốn liên hôn với Thiên tộc, đã tìm hiểu khắp Thiên tộc, trừ Liên Tống Quân, chỉ có Đế Quân vẫn độc thân. Những việc triều đường đó không phải ta và muội có thể bàn tán, vả lại Đế Quân hầu như không bận tâm tới chuyện ngoài Thiên đạo, có lẽ cũng không biết cưới đế hậu sẽ thế nào”.

Thị nữ kia xuýt xoa một hồi, vẫn chưa hết hiếu kỳ, tiếp tục gợi chuyện khác: “À, muội nhớ hơn ba trăm năm trước có một lần may mắn được nhìn thấy Đế Quân, thấy bên cạnh ngài có một con hồ ly lông đỏ như lửa. Muội nghe mấy vị tiên bác ở cung Thái Thần nói, Đế Quân rất sủng tiểu hồ ly đó, đi đâu cũng mang theo, nhưng mấy ngày trước, lúc muội hầu hạ ở yến tiệc đại hôn của thái tử điện hạ lại không thấy tiểu hồ ly kia đi cùng Đế Quân, không hiểu là vì sao?”.

Người kia dừng một lúc lâu rồi mới thở dài nói tiếp: “Đế Quân đúng là rất sủng con hồ ly đó, nhưng năm xưa, khi tin Đế Quân sắp cưới Đế Hậu lan khắp cung Thái Thần, tiểu hồ ly liền mất tích. Đế Quân từng cho người tìm khắp Thiên giới cũng không thấy”.

Phượng Cửu dựa vào ngọn giả sơn, chơi trò tung hứng túi hạt dưa, cuối cùng tung hơi xa, túi hạt dưa rơi tõm xuống cái ao nhỏ bên cạnh hòn núi giả. Hai thị nữ giật mình, tiếng chân bước gấp xa dần, rồi biến mất, có lẽ đã chạy đi rất xa.

Cục bột nhỏ nhẫn nhịn hồi lâu, khuôn mặt nhỏ nhắn đỏ ửng, nhìn mặt nước vẫn còn gợn sóng, phụng phịu: “Lát nữa xem kịch lấy gì ăn?”.

Phượng Cửu đứng dậy sửa sang xiêm áo định quay đi, Cục bột nhỏ cúi đầu nói dỗi: “Tại sao trên Thiên giới có tiểu hồ ly, đệ lại không biết”. Rồi băn khoăn lẩm bẩm một mình: “Con tiểu hồ ly ấy sau đó đi đâu nhỉ”.

Phượng Cửu dừng bước chờ Cục bột nhỏ.

Bên rìa Thập Trùng Thiên bỗng lộ ra chùm kim quang chói lọi, Thập Trùng Thiên giống như được viền vàng lóng lánh.

Phượng Cửu giơ tay ra che mắt, ngửa đầu nhìn ánh vàng sáng loáng nói: “Có thể nó đã về nhà”. Rồi quay lại nhìn Cục bột nhỏ: “Tiểu đệ, cái chân ngắn ngủn của đệ có thể đi nhanh hơn được không?”.

Cục bột nhỏ lắc đầu nguầy nguậy: “Không thể!”.

Đến lúc ngước mắt đã nhìn thấy Thừa Thiên Đài, Phượng Cửu mới phát hiện kim quang phía chân trời lúc trước không phải là ánh nắng ban mai do Mão Nhật Tinh Quân rắc xuống.

Cách Thừa Thiên Đài mười trượng, Phượng Cửu bỗng sững lại.

Ngay trước mặt, Thừa Thiên Đài cao hơn trăm trượng được ghép bằng hàn ngọc ngàn năm, không hiểu vì sao chìm trong biển lửa. Nếu Mê Cốc không nhanh tay tung kết giới lên bảo vệ, thì ngọn lửa đã thiêu sống đám ca kỹ đang khϊếp sợ run rẩy. Cỗ xe ngựa ban nãy dừng lại trước biển lửa, xung quanh cũng có một kết giới vững chắc bảo vệ, người bên trong chính là Tri Hạc – vị công chúa ba trăm năm trước bị lưu đày xuống Hạ giới. Hình như Mê Cốc đang lớn tiếng nói gì với nàng ta, tay nàng ta nắm chặt dây cương, mặt rất bối rối.

Phía sau biển lửa đột nhiên vọng ra một tiếng gầm chói tai.

Phượng Cửu nheo mắt, rốt cuộc cũng tìm ra căn nguyên trận hỏa hoạn: một con hung thú đang cố đập cánh bay ra khỏi biển lửa, cái mồm rộng ngoác đỏ như chậu máu liên tục phun lửa, nó liệng một vòng trợn hai mắt như chiếc chuông đồng, rồi quay ngoắt, lao thẳng vào kết giới của Mê Cốc. Kết giới trong suốt đã xuất hiện vết nứt, phía sau biển lửa trùng trùng, đám ca kỹ kinh hoàng run rẩy, chắc là lại hét thảm thiết nhưng do tiên chướng trùm lên, nên không có âm thanh nào truyền ra. Tất cả như một hoạt cảnh câm kỳ dị thê thảm.

Tri Hạc lần này trở lại Thiên giới, ý đồ khá rõ ràng, rành rành là lên xem lễ hội ngàn hoa của Liên Tống Quân, kỳ thực muốn lén gặp nghĩa huynh Đông Hoa Đế Quân. Cơ hội quay lại Cửu Trùng Thiên của nàng, hoàn toàn là do mấy ngày trước nàng lấy lòng thượng thần Bạch Thiển, biết thượng thần thích ca kịch, liền chọn lựa mấy ca kỹ ở tiên sơn của mình dâng lên. Vì vậy, cũng định nhân tiện lên xem các ca kỹ có làm hài lòng thượng thần Bạch Thiển hay không.

Nhưng không hiểu cơn cớ gì lại gặp chuyện không may như thế, chẳng biết ai đó đã động vào phong ấn giam cầm hung thú Xích Diễm bên dưới Thừa Thiên Đài khiến cỗ xe của Tri Hạc vừa đến đã thấy lửa cháy ngút trời.

Thực ra Tri Hạc thuộc thủy thần, ngày trước khi còn ở cung Thái Thần, thực sự có thể coi là thủ hạ của Tứ Hải Thủy Quân Liên Tống Thần Quân, chuyên quản hô gió gọi mưa ở Tây Hoang, là vị nữ thần hữu dụng hiếm hoi của Thiên giới, cho nên mặc dù bị đày xuống Hạ giới, nàng vẫn quản trách hô gió gọi mưa ở tiên sơn của mình.

Tri Hạc cũng biết, chút tài mọn của mình hoàn toàn không phải là đối thủ của con hung thú. Nàng định đi tìm người giúp, hình như vị thần tiên áo nâu trong kết giới đang hét gì với nàng, dường như định hiến kế, nhưng vị đó nói gì, nàng hoàn toàn không nghe được.

Đang chần chừ, bỗng nhiên một thiếu nữ xiêm y trắng tinh bay đến trước mặt Tri Hạc, đôi hài thêu màu trắng như đạp gió lướt tới, gió nóng từ biển lửa thốc qua, chiếc váy sa trắng của nàng xòe tung tựa như đóa sen trắng bừng nở.

Tri Hạc nhìn đôi hài thêu, ánh mắt men theo chiếc váy sa phấp phới di chuyển dần lên trên, bỗng kêu một tiếng thất thanh.

Trong ký ức của Tri Hạc cũng có gương mặt như thế, đôi môi mỏng lạnh lung, sống mũi cao thẳng, đôi mắt hạnh đào, hàng chân mày thanh tú, chỉ là giữa trán không có đóa hoa phượng vũ băng lạnh diễm sắc như thế này.

Nhưng trong ký ức của nàng, nữ tử kia bất quá chỉ là một nô tỳ thấp kém ở cung Thái Thần, khi ấy nàng chưa từng trải, cũng từng ghen tức bởi một nô tỳ dám có nhan sắc khuynh thành như thế, chỉ sợ Đông Hoa Đế Quân nhìn thấy sẽ mê hoặc, nên luôn tìm cách ngăn cản không cho nữ tỳ kia có cơ hội giáp mặt Đế Quân, còn nhiều lần hành hạ, thậm chí có vài lần khiến kẻ đó khốn khổ.

Tri Hạc kinh ngạc hồ nghi: “Ngươi là …”.

Người đó lại cất lời trước, giọng lạnh như băng: “Là thủy thần, gặp hỏa hoạn sao không hành phép gọi mưa? Thiên tộc phong ngươi làm thủy thần để làm gì?”.

Nói xong không đợi công chúa Tri Hạc phản bác, đã rút ra cây sáo dài ở thắt lưng, xoay người xông thẳng vào biển lửa.

Bao nhiêu năm qua, Phượng Cửu thạo nhất hai ngón, một là nấu ăn, hai là giao đấu. Lánh xa sự đời hơn hai trăm năm ở Thanh Khâu chẳng có cơ hội giao đấu, nàng cũng thấy hơi buồn. Bỗng dưng chứng kiến hung thú Xích Diễm gây họa ở đây, nếu bảo là không ngứa ngáy chân tay muốn động thủ e là nói dối.

Trong biển lửa ngút trời, bóng áo trắng bay liệng như múa cùng tiếng sáo du dương. Kỳ thực đó chính là khúc cầu mưa.

Tiếng sáo đơn độc vấn vít trong biển lửa bay thẳng lên trời, đánh thức Thiên Hà, nước từ dòng Thiên Hà cuồn cuộn đổ xuống, trong chớp mắt đã trút mưa. Mưa tuy dập được lửa, nhưng lại kích nộ hung thú, Xích Diễm thôi không tấn công kết giới của Mê Cốc nữa mà quay ra phun lửa vào Phượng Cửu.

Thật ra đây cũng là kế điệu hổ ly sơn của Phượng Cửu nếu không vì phải tìm ra cách cứu Mê Cốc cùng đám ca kỹ trên thiên đài thì với tính cách của mình Phượng Cửu đã vung thanh kiếm Đào Chú chém chết hung thú. Tất nhiên, vì đối thủ là con dã thú Xích Diễm hung hãn, chém chết nó chắc cũng tốn không ít sức lực. Nhưng nếu làm thế Phượng Cửu cũng không đến nỗi rơi vào thế bị động như lúc này.

Phượng Cửu thất vọng nghĩ, nàng không thể phân thân, vừa thổi sáo cầu mưa vừa rút thần kiếm trảm yêu. Lại không trông cậy gì ở công chúa Tri Hạc, chỉ có thể trông cậy vào Cục bột nhỏ chân ngắn chạy nhanh hơn một chút gọi vị thần tộc nào đó đến ứng cứu.

Nàng vừa nghĩ vừa né mấy quả cầu lửa của hung thú, thổi sáo cầu mưa thì không thể dùng tiên khí hộ thân, Phượng Cửu toàn thân ướt sũng. Mưa tầm tã, biển lửa bao quanh Thừa Thiên Đài cuối cùng cũng bị dập tắt, hung thú nổi điên lao vào Phượng Cửu, không ngờ lãnh địa phía sau bị bỏ trống, tất cả những người bị giữ trong đó lần lượt chạy mất.

Giằng co như vậy hết nửa ngày, Phượng Cửu cảm thấy thể lực có phần đuối, lâu rồi không giao đấu vừa ra tay lại bị thua, điều này tuyệt đối không thể, như vậy khi trở về Thanh Khâu biết ăn nói thế nào với các bậc hương thân phụ lão. Nàng cảm thấy đã đến lúc phải thu sáo về, rút kiếm Đào Chú ra, nhưng nếu tấn công trực diện, chắc chắn hung thú sẽ tránh được, nếu tấn công từ phía sau, vạn nhất nó tránh được, còn mình mất đà, rơi vào thế hạ phong thì sao…

Còn đang phân vân, chưa nghĩ ra đối sách, bỗng một đường kiếm từ phía sau xé gió chém tới.

Hung thú trước mặt lại tiếp tục phun lửa, nàng không kịp để ý tới đường kiếm kia, đang định tránh lửa phun, đã được bàn tay ai nhẹ nhàng đưa đi.

Sức gió từ đường kiếm hất tung ống tay áo Phượng Cửu, mạnh đến như một bức tường kính đồ sộ chặn đứng lưỡi lửa khổng lồ đang liếʍ về phía nàng, sau tia sáng bạc lóe lên, lưỡi lửa rừng rực vừa rồi còn nhe răng múa vuốt lập tức bị đánh bật ngược trở lại hung thú.

Đang bàng hoàng, một chiếc áo choàng tím chụp xuống. Nàng vùng vẫy thoát khỏi chiếc áo, nhìn bóng người cầm kiếm, thân vận trường bào tím cao quý, mái tóc trắng như tuyết ở Thanh Khâu.

Những ngón tay dài thanh tú, trong cung Thái Thần cầm kinh Phật, ngoài cung Thái Thần cầm chuôi kiếm, bất luận cầm gì, cũng đều duyên dáng tao nhã vô cùng.

Thừa Thiên Đài bỗng chốc có một trận gió tanh mưa máu, trong ánh sáng chói mắt loang loáng không nhìn rõ động tác của Đông Hoa, chỉ nghe tiếng rống thê thảm của hung thú, không quá hai chiêu, con thú nặng nề từ không trung rơi xuống, làm rung chuyển Thừa Thiên Đài.

Đông Hoa tra kiếm vào vỏ, trên người không dính nửa giọt máu.

Công chúa Tri Hạc vẫn đứng dựa vào cỗ xe ngựa, sắc mặt trắng bệch, dường như định đến gần, nhưng lại không dám.

Đám ca kỹ chưa từng nhìn thấy cảnh tượng đó, trải qua một trận kinh hoàng, ai nấy hồn xiêu phách lạc, có người còn khóc thút thít.

Mê Cốc đỡ Phượng Cửu ngồi xuống ghế đá dưới Thừa Thiên Đài, vẫn không quên bổn phận, nhắc nhở nàng: “Điện hạ như thế này thật tùy tiện, hôm nay nếu không có Đế Quân kịp thời ra tay, không biết hậu quả thế nào, vạn nhất xảy ra chuyện gì, tiểu tiên chết cũng không hề gì, nhưng biết ăn nói sao với thượng thần Bạch Thiển”.

Phượng Cửu khẽ lầm bầm: “Chẳng phải vô sự rồi ư?”.

Thâm tâm mặc dù cũng rất cảm kích Đông Hoa, nhưng Phượng Cửu cho rằng hôm nay nếu Đông Hoa không đến, thì cô cô Bạch Thiển và phu quân cũng đến, cũng chẳng có việc gì lớn, chẳng nguy hại gì đến tính mạng mình. Ngước mắt thấy Đông Hoa cầm kiếm đi tới, nghĩ chàng đến đây chắc là tìm Tri Hạc, vội đứng dậy ngồi sang bàn bên cạnh, thấy trên mình vẫn còn khoác áo chùng tím của chàng, liền khẽ bảo Mê Cốc: “Ngươi cởϊ áσ ngoài, cho ta mượn một lát”.

Mê Cốc hắt hơi một cái, nhìn chiếc áo chùng tím trên người nàng: “Chẳng phải điện hạ đã có áo khô mặc rồi sao?”. Lại ngây người, nói: “Dù sao chuyện cũng qua, tiểu tiên thấy hai trăm năm nay điện hạ cũng không để ý đến nhiều thứ, sao hôm nay lại câu nệ chuyện nhỏ này?”. Nói xong giữ chặt áo trên người, nhất định không cho nàng mượn.

Phượng Cửu cởi chiếc áo chùng, định trả cho chủ nhân của nó.

Vừa ngẩng đầu lên, đã hốt hoảng lùi sau.

Đông Hoa đã đến trước mặt nàng, tay cầm thanh kiếm Thương Hà, ánh mắt lạnh lùng, đăm đăm nhìn nàng.

Toàn thân Phượng Cửu ướt sũng, nước từ vạt áo vẫn nhỏ ròng ròng, đọng thành vũng nước dưới chân, trông cực kỳ thảm hại. Nàng vừa vắt nước trên áo, vừa lạnh lùng nhìn trả, muốn cứu vãn thể diện, đầu đang suy nghĩ rất lung. Cảm thấy lần tình cờ gặp chàng mấy hôm trước đã thấy ngại, đến giờ thật ra vẫn chưa biết nên đối diện với chàng thế nào, để khỏi xảy ra sơ suất, vẫn nên trảnh gặp thì hơn, nhưng không hiểu sao, rắp tâm né tránh lại liên tục giáp mặt.

Đông Hoa nhìn nàng từ trên xuống dưới, ánh mắt dừng trên chiếc áo chùng tím đã được gấp phẳng phiu, giọng khô khan: “Nàng có ý kiến về áo choàng của ta ư?”.

Phượng Cửu cảm thấy hai người đứng quá gần, mùi hương bạch đàn phảng phất khiến đầu nàng choáng váng, liền lùi lại một bước, đắn đo gượng cười: “Tiểu nữ đâu dám, chỉ là nếu mượn mang về thì phải giặt sạch đem trả Đế Quân … vậy là phải gặp lại. À, không, phải làm phiền Đế Quân lần nữa”. Nhìn sắc mặt chàng, bổ sung một câu: “Rất ngại quấy rấy sự thanh tĩnh của Đế Quân”.

Kiếm Thương Hà đặt “cạch” một tiếng lên bàn đá.

Mê Cốc ho một tiếng, khép ống tay áo nói: “Xin Đế Quân chớ hiểu lầm, không phải điện hạ không muốn gặp Đế Quân, Đế Quân ngài tôn quý như vậy, điện hạ còn tiếc là không thể ngày ngày nhìn thấy ngài…”. Đang nói bị Phượng Cửu đá cho một cái, đau quá đành ngậm miệng.

Đông Hoa liếc Phượng Cửu, hiểu ý nói: “Đã vậy, tặng nàng làm kỷ niệm, không cần phải trả lại”.

Nụ cười của Phượng Cửu vốn đã cứng, càng như đóng băng trên mặt: “…Ý tiểu nữ không phải vậy”.

Đông Hoa thư thả ngồi xuống: “Vậy thì giặt sạch, rồi trả lại cho ta”.

Phượng Cửu chỉ cảm thấy nụ cười trên mặt mình đã cứng như khay đá, nhưng khay đá này nàng cũng không thể giữ lại được nữa, môi mấp máy: “Hôm nay trời ấm, tiểu nữ cũng không thấy quá lạnh”. Nàng vốn định nói thẳng là “Không mượn áo này có được không?”. Nhưng lại nghĩ, nói thế e là quá cứng, nên đổi lại cho uyển chuyển hơn: “Không mượn áo này, có được không?”. Vừa dứt lời, một trận gió lạnh thốc tới, nàng rung mình một cái.

Đông Hoa đón cốc trà không biết Mê Cốc kiếm đâu ra, thong thả nhấp một ngụm: “Không được”.

Nụ cười cứng như khay đá cuối cùng rơi khỏi mặt Phượng Cửu, nàng nhất thời không biết nên tỏ thái độ thế nào, ngây ra hỏi: “Tại sao?”.

Đông Hoa đặt chén trà xuống, hơi ngước mắt: “Ta cứu nàng, lẽ ra nàng phải đem thân báo đáp, giặt một bộ y phục cũng khó thế sao?”.

Phượng Cửu cảm thấy tính chàng trước đây đâu có cố chấp như vậy, nhưng lại nghĩ, cũng có lúc chàng như vậy, chỉ có điều không để nàng nhìn thấy, khi định thần trở lại đã nghe thấy mình cười nhạt, nói: “Đế Quân hà tất phải làm khó người khác?”.

Đông Hoa cầm chén trà, chậm rãi trả lời: “Trừ cái đó, ta chẳng có sở thích nào khác”.

Lúc này Phượng Cửu cười gượng hay cười nhạt đều không thể, nhăn nhó, nói: “Đế Quân thật là …”.

Đông Hoa đặt chén trà xuống, một tay chống má, thong dong nhìn nàng: “Ta làm sao?”, nói đoạn, nhìn Phượng Cửu bị dồn lung túng không biết nói sao, đôi mắt chàng vốn ít khi biểu cảm, hiếm hoi lộ ánh cười, lại thong thả hỏi nàng: “Nói đi, tại sao nàng cứu bọn họ?”.

Thật ra, vừa rồi không phải nàng bị hỏi dồn không nói ra lời, chỉ là biểu hiện trên mặt Đông Hoa, trong khoảnh khắc quá đỗi quen thuộc, là hình ảnh đã in sâu trong tâm trí nàng, khiến nàng sững sờ, đến khi sực tỉnh, chàng đã hỏi sang câu khác. Nàng nghe rõ câu hỏi vừa rồi, tại sao lại cứu bọn họ, trước đó chính nàng cũng không rõ, cũng không hẳn là bởi quan tâm đến tính mạng người khác, nhưng trước đây có một người dạy nàng vài đạo lý. Lát sau, nàng chậm rãi trả lời: “Phu quân của Phượng Cửu lúc còn tại thế có dạy Phượng Cửu kẻ mạnh sinh ra là để bảo vệ kẻ yếu. Nếu hôm nay không cứu bọn họ, Phượng Cửu sẽ trở thành kẻ yếu, như vậy có tư cách gì bảo vệ thần dân của mình?”.

Rất nhiều năm sau, Đông Hoa vẫn không thể quên những lời này của Phượng Cửu, thật ra chính chàng khi đó cũng không biết ghi nhớ những lời kia có ý nghĩa gì. Chỉ cảm thấy thiếu nữ này luôn khiến chàng thấy có ý gần gũi, nhưng vẫn không nhận ra nàng. Trong ký ức, lần đầu tiên gặp nàng là ở bên bờ biển Váng Sinh của Thanh Khâu, mái tóc nàng khi ấy đen dài như hải tảo, chân đạp sóng lên bờ, chàng cũng không nhớ rõ hình dáng khi ấy, giống như không nhớ rõ hoa hướng dương bên bờ Vãng Sinh.

Chuyện xảy ra hôm nay, nhanh chóng lan truyện khắp Cửu Trùng Thiên, nhưng có rất nhiều dị bản khác nhau, kéo Đông Hoa từ thanh tịnh nơi Thiên giới xuống dưới mười trượng hồng trần.

Có người nói, hung thú Xích Diễm gây hỏa hoạn ở Thừa Thiên Đài, Đông Hoa đang ở Nhất Thập Tam Thiên, cung Thái Thần phê chú kinh Phật, nghe nói nghĩa muội của mình là công chúa Tri Hạc gặp nạn vội vàng đến cứu, cuối cùng hàng phục được hung thú, có thể thấy tình của Đế Quân đối với nghĩa muội quả thật không bình thường. Người khác lại nói Thừa Thiên Đài bốc cháy, Đông Hoa đúng lúc đi ngang qua, thấy một vị nữ tiên dung mạo cực kỳ xinh đẹp giao đấu với hung thú nhưng đang ở thế hạ phong, chàng không đành lòng, liền rút kiếm cứu giúp, Thiên Quân xưa nay luôn cho Đế Quân là vị tiên vô dục vô cầu, thì ra cũng có lúc nhìn nhầm. Vân vân….

Liên Tống nghe được chuyện này, tay cầm quạt ung dung đến cung Thái Thần tìm Đông Hoa đánh cờ uống rượu, nhân tiện làm rõ thực hư: “Chuyện ở Thừa Thiên Đài, nghe nói hiền huynh thấy mỹ nhân giao đấu với hung thú, nhất thời không thể kìm lòng mà ra tay cứu giúp, đệ quả thật không tin …”. Đặt một quân cờ trắng xuống, nói tiếp: “Nhưng, nếu có ngày hiền huynh nghĩ thông. Muốn cưới đế hậu, Tri Hạc cũng không tồi, hay là hôm nào nói với phụ vương đệ một tiếng, triệu công chúa Tri Hạc về thiên giới”.

Đông Hoa xoay chén rượu nhìn bàn cờ nghĩ ngợi, nghe vậy, đáp lại bằng câu hỏi: “Mỹ nhân ư? Bọn họ cảm thấy nàng rất đẹp?”.

Liên Tống hỏi lại: “Sao?”.

Đông Hoa thong dong đặt một quân đen xuống, chặn quân trắng: “Nhãn quang của họ cũng khá”.

Liên Tống ngẩn ra, lát sau gập chiếc quạt đánh phạch một tiếng, có vẻ ngạc nhiên: “Có thật hiền huynh đã gặp một mỹ nhân ở Thừa Thiên Đài?”.

Đông Hoa nhìn bàn cờ: “Có thật đệ đến chơi cờ với ta?”.

Liên Tống cười ha hả.

Bởi vậy có thể thấy, trong hai tin đồng về chuyện xảy ra ở Thừa Thiên Đài, tin đồn sau, ngay bằng hữu thân thiết của Đông Hoa Đế Quân là Liên Tống còn không tin, nói chi những thần tiên khác ở Cửu Trùng Thiên. Tất nhiên đều coi đó là chuyện bàn tán cho vui, nhưng lại có những suy đoán sáng sủa đối với tiền đồ của công chúa Tri Hạc, cho rằng chuỗi ngày cực khổ của công chúa cũng sắp qua, không lâu nữa có thể trở về Cửu Trùng Thiên, chưa biết chừng còn có thể kết lương duyên cùng Đông Hoa Đế Quân.

Cửu Trùng Thiên có một giới luật, phàm là thần tiên phải gạt bỏ mọi tư tình lòng dục, nhưng chỉ dành cho những vị không phải dòng dõi thần tiên, nhờ tu luyện mà cơ duyên thành thần tiên, như vậy trái với tạo hóa của thiên địa. Đông Hoa Đế Quân xuất hiện trong thời kì âm dương chia tách, sinh ra đã là hóa thân của linh hồn biển cả, là dòng giống tiên đích thực của tạo hóa thiên địa, hoàn toàn không phải tuân thủ giới luật kia. Lập một đế hậu, cũng là hợp tình hợp lý.