Người đi va vào Ðổng Trác, tức là Lý Nho.
Nho thấy Trác ngã, vội vàng đỡ Trác đứng dậy, dìu vào ngồi trong thư viện.
Trác hỏi Lý Nho:
– Ngươi đến đây làm gì?
Lý Nho thưa:
– Tôi chợt qua cửa phủ, thấy nói Thái Sư giận đi vào vườn sau tìm Lữ Bố, tôi vội vàng chạy vào, thì gặp Lữ Bố chạy ra, kêu lên rằng: Thái Sư gϊếŧ ta. Bởi thế tôi hấp tấp vào đây để can ngăn Thái Sư, chẳng may chạm phải Thái Sư, thật đáng tội chết!
Trác nói:
– Không ]�� 0� ng nghịch tặc ấy! Hắn dám đùa bỡn ái cơ của ta. Thế nào ta cũng gϊếŧ chết hắn mới nghe.
Lý Nho can rằng:
– Thái Sư không nghĩ cho chín; ngày xưa vua Trang Vương nước Sở, trong bữa tiệc “Dứt dải mũ” đã tha tội cho Tưởng Hùng đã đùa bỡn với người vợ yêu đến sau bị binh nhà Tần làm khốn, được Tưởng Hùng cố sức liều chết cứu thoát được. Nay Ðiêu Thuyền chẳng qua là một đứa con gái mà Lữ Bố là một mãnh tướng tâm phúc của Thái Sư, nếu Thái Sư nhân dịp này đem Ðiêu Thuyền cho Bố, chắc Bố cảm ơn lắm, lấy chết báo lại Thái Sư, xin Thái Sư nghĩ đi nghĩ lại.
Trác nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói rằng:
– Ngươi nói cũng phải, để ta nghĩ kỹ xem.
Lý Nho từ tạ rồi ra.
Trác vào ngay hậu đường gọi Ðiêu Thuyền ra hỏi rằng:
– Sao ngươi có tư tình với Lữ Bố?
Ðiêu Thuyền khóc thưa rằng:
– Thϊếp đang đứng xem hoa, bỗng Lữ Bố đột ngột ở đâu đến. Thϊếp vội vàng toan tránh. Bố nói: Tôi là con Thái Sư, việc gì phải tránh? Rồi y cầm kích ép thϊếp đến Ðình Phượng Nghi. Thϊếp thấy y có lòng bất lương, sợ xâm phạm tại mình thϊếp, định đâm đầu xuống ao sen tự vận, nhưng lại bị y ôm chặt lấy. Ðang lúc giằng co không biết sống chết thế nào, may có Thái Sư chạy lại cứu được tính mệnh.
Trác lại hỏi:
– Nay ta đem ngươi gả cho hắn, ngươi có thuận không?
Ðiêu Thuyền giật mình, khóc rằng:
– Thϊếp đã được vào hầu quý nhân, nay lại đem gả cho thằng ở, thϊếp thà chết chứ không chịu được nhục này!
Bèn rút ngay thanh bảo kiếm treo ở vách, toan tự vẫn.
Trác vội vàng giằng lấy thanh kiếm, ôm chặt lấy Ðiêu Thuyền và nói rằng:
– Ta nói bỡn đấy mà!
Thuyền nằm vào lòng Trác, bưng mặt khóc rằng:
– Ðây hẳn là mẹo của Lý Nho, Nho với Bố hai đứa là bạn thân với nhau, nên Nho mới bày ra mẹo này, không kể gì đến thể diện của Thái Sư và tính mệnh của tiện thϊếp, thϊếp phải xẻ thịt chúng nó ra.
Trác nói:
– Ta sao nỡ bỏ nàng.
Ðiêu Thuyền lại nói:
– Thái Sư dẫu có lòng thương yêu, cũng không nên ở đây lâu, sợ bị Lữ Bố làm hại.
Trác dỗ dành Ðiêu Thuyền rồi nói rằng:
– Ngày mai chúng ta về My , cùng hưởng sung sướиɠ, đừng lo gì nữa.
Thuyền mới lau nước mắt lạy tạ.
Hôm sau Lý Nho vào ra mắt, nói rằng:
– Hôm nay tốt ngày Thái Sư nên đem Ðiêu Thuyền gả cho Lữ Bố.
Trác nói:
– Chuyện ấy ta đã nghĩ rồi. Lữ Bố với ta là quan hệ cha con, làm thế không tiện. Ta tha tội cho Bố, ngươi nên truyền đạt cho Bố biết ý ta và tìm lời an ủi Bố, thế là được rồi!
Nho nói:
– Thái Sư đừng dễ mê hoặc vì một người đàn bà.
Trác giận đổi sắc mặt mắng rằng:
– Thế thì vợ con ngươi, ngươi có đem cho hắn không? Việc Ðiêu Thuyền cấm được nói động đến nữa, còn nói ta sẽ chém đầu.
Lý Nho trở ra, ngẩng mặt lên trời than rằng:
– Lũ chúng ta chết cả về tay người đàn bà!
Ðời sau có thơ rằng:
Tư Ðồ khéo mượn khách má đào,
Chẳng dùng gươm giáo, chẳng dùng dao
Hổ Lao ba trận hoài bao sức,
Phượng Nghi chiến thắng ấy lạ sao!
Ngày hôm ấy Ðổng Trác hạ lệnh về My , trăm quan đều đi tống tiễn. Ðiêu Thuyền ngồi trên xe, xa trông thấy Lữ Bố đứng ở trong đám đông người, mắt nhìn vào trong xe.
Thuyền giả cách che mặt làm ra dáng đau khổ bi thảm.
Xe đã đi xa. Lữ Bố còn cầm cương ngựa đứng trên gò đất, nhìn đám bụi mù mịt than tiếc bực dọc. Chợt nghe sau lưng có người hỏi rằng:
– Ôn Hầu sao không theo Thái Sư đi, lại đứng đấy nhìn xe mà than thở?
Bố quay đầu lại xem ai, thì ra là Tư Ðồ Vương Doãn.
Chào hỏi xong, Doãn nói:
– Tôi mấy bữa nay, hơi khó ở, không đi đâu, cho nên chưa có dịp gặp tướng quân. Bữa nay Thái Sư về My , nên tôi phải gượng ra tiễn, may sao lại gặp tướng quân. Xin hỏi tướng quân làm sao lại đứng đây thở than?
Bố nói:
– Chỉ vì con gái ông đấy!
Doãn giả cách thất kinh hỏi rằng:
– Từ hôm ấy đến nay con tôi vẫn chưa về với tướng quân à?
Bố nói:
– Thằng giặc già ấy lấy làm thϊếp của hắn đã lâu rồi!
Doãn lại giả cách thất kinh:
– Không ngờ lại như thế!
Bố bèn đem chuyện kể lại đầu đuôi cho Vương Doãn nghe. Vương Doãn mặt ngửa lên trời, chân dẫm xuống đất, thừ người ra không nói gì. Mãi hồi lâu, Doãn mới nói rằng:
– Không ngờ Thái Sư lại làm việc cầm thú ấy…
Rồi kéo tay Lữ Bố, nói rằng:
– Xin tướng quân hãy đến nhà tôi nói chuyện.
Bố theo Doãn về, Doãn mời Bố vào nhà trong kín đáo, sai làm rượu khoản đãi.
Bố lại đem việc gặp Ðiêu Thuyền ở Ðình Phượng Nghi kể hết đầu đuôi cho Doãn nghe.
Doãn nói:
– Thái Sư làm nhục con gái tôi, cướp vợ tướng quân. Thiên hạ người ta sẽ chê cười cho, nhưng người ta không chê cười Thái Sư đâu mà người ta chỉ chê cười tướng quân và tôi thôi. Tôi già yếu chẳng kể làm gì, chỉ tiếc thay tướng quân là bậc anh hùng tiếng tăm lừng lẫy một đời, mà phải chịu cái nhục này.
Bố nghe nói, cơn giận bốc lên bừng bừng, nắm tay đấm xuống bàn, kêu một tiếng thật to.
Doãn vội vàng nói rằng:
– Lão trót lỡ lời… xin tướng quân nguôi giận!
Bố nói:
– Ta thề sẽ gϊếŧ chết thằng giặc già ấy để rửa nhục.
Doãn vội vàng lấy tay bưng miệng Bố can rằng:
– Tướng quân chớ nói, nhỡ ra có liên lụy đến lão.
Bố nói:
– Ðại trượng phu sinh ra trong trời đất, lẽ đâu lại cứ ngậm ngùi chịu làm tôi tớ người khác mãi ru!
Doãn nói thêm một câu rằng:
– Tài như tướng quân thì sao Thái Sư có thể kìm hãm được.
Bố lại nói:
– Tôi muốn gϊếŧ thằng giặc già ấy, nhưng ngại rằng còn vương tình cha con, sợ người sau chê cười chăng?
Doãn tủm tỉm cười nói rằng:
– Tướng quân họ Lữ, mà Thái Sư họ Ðổng, thử hỏi lúc Thái Sư cầm kích lao tướng quân ở Ðình Phượng Nghi, liệu còn có tình cha con không?
Bố hăng hái đứng lên nói rằng:
– Nếu Tư Ðồ không dạy tôi câu ấy, suýt nữa tôi lầm.
Doãn thấy Lữ Bố đã quyết tâm gϊếŧ Trác bèn bảo Lữ Bố rằng:
– Giúp nhà Hán, tướng quân mới thực là trung thần để tiếng trong sử xanh mãi mãi. Nếu tướng quân giúp Ðổng Trác thì là phản thần, sẽ để tiếng xấu muôn đời.
Bố đứng dậy lạy Vương Doãn nói rằng:
– Ý tôi đã quyết rồi. Tư Ðồ không nên nghĩ nữa.
Doãn nói:
– Tôi sợ việc không xong thì vạ to.
Bố liền rút con dao đeo ở mình, đâm một nhát vào cánh tay, chảy máu ra để thề.
Doãn quỳ xuống lạy tạ, nói rằng:
– Hương hỏa nhà Hán, nay không đến nỗi mất, đều là ơn tướng quân giữ kín, đừng để tiết lộ ra. Khi nào việc đến nơi tôi sẽ có mưu kế. Lúc đó tôi sẽ xin báo cho tướng quân biết.
Bố khẳng khái nhận lời rồi trở ra.
Doãn lập tức mời quan Bộc Sa là Sĩ Tôn Thụy, quan Tư Lệ Hiệu Úy là Hoàng Uyển đến để bàn việc ấy.
Thụy nói:
– Nay vua mệt mới khỏi, nên sai một người nói khéo đến Mỵ mời Trác vào đây để bàn việc nước. Một mặt lấy mật chiếu của thiên tử trao cho Lữ Bố, sai phục quân trong cửa triều, đợi Trác vào đến nơi sẽ gϊếŧ đi. Chước ấy là hơn cả.
Uyển nói:
– Nhưng có ai dám đi mời không?
Thụy nói:
– Có quan Kỵ Ðô Úy Lý Túc là người cùng quận với Lữ Bố. Vì Trác không thăng chức cho, vẫn mang bụng oán tức, ta sai người ấy đi chắc Trác không nghi ngờ
Doãn cho là phải, bèn mời Lữ Bố đến nhà bàn bạc.
Bố nói:
– Ngày xưa xui ta gϊếŧ Ðinh Nguyên cũng là người ấy. Nay hễ sai mà không đi, ta sẽ chém ngay trước.
Các quan mật sai mời Lý Túc đến. Bố bảo Túc:
– Xưa ông xui tôi gϊếŧ Ðinh Kiến Dương để về với Ðổng Trác. Nay Ðổng Trác trên dối thiên tử, dưới hại sinh linh, tội ác đã nhiều, cả người và thần đều giận. Vậy ông hãy mang chiếu thiên tử, triệu Trác vào chầu, rồi ta phục binh gϊếŧ nó đi, cố giúp nhà Hán, cùng làm trung thần nghĩa sĩ, ông tính thế nào?
Túc nói:
– Tôi cũng muốn trừ thằng giặc ấy đã lâu, hiềm vì chưa gặp ai cùng lòng. Nay tướng quân có bụng ấy, là trời giúp tôi đó. Tôi sao dám hai lòng?
Nói đoạn Túc bẻ một cái tên ra thề.
Doãn nói:
– Ông làm nổi việc này, lo gì chẳng được quyền cao chức trọng.
Hôm sau Túc dẫn vài mươi tên kỵ mã đến My , sai người báo tin cho Trác rằng có chiếu thiên tử đến. Trác cho mời vào, Lý Túc vào lạy, Trác nói:
– Thiên tử có chiếu gì?
Túc thưa:
– Thiên tử vừa mệt khỏi, muốn hội văn võ ở cung Vị Ương để bàn nhường ngôi cho Thái Sư, nên sai tôi cầm chiếu này đến đây.
Trác hỏi:
– Ý Vương Doãn thế nào?
Túc thưa:
– Vương Tư Ðồ đã sai người đắp đền thụ thiện, chỉ mong đợi Thái Sư về.
Trác mừng rỡ nói rằng:
– Thảo nào đêm ta nằm mộng thấy một con rồng quấn vào mình. Hôm nay quả nhiên có tin mừng. Dịp này không nên để lỡ.
Bèn sai bốn tướng tâm phúc là Lý Thôi, Quách Di, Trương Tế, Phàn Trù lĩnh ba ngàn quân phi hùng giữ My rồi ngay hôm ấy sắp xe kiệu vào kinh.
Trác ngoảnh lại bảo Lý Túc:
– Hễ ta làm vua thì cho ngươi làm chức Chấp Kim Ngô.
Túc lạy tạ, xưng thần.
Trác vào từ giả mẹ. Mẹ Trác bấy giờ đã hơn chín mươi tuổi, hỏi Trác:
– Con đi đâu?
Trác nói:
– Con sắp đi nối ngôi vua nhà Hán. Nay mai mẹ sẽ lên làm Hoàng thái hậu đấy.
Mẹ Trác nói:
– Ta mấy hôm nay cứ nóng ruột giật mình, sợ không phải điềm hay!
Trác nói:
– Mẹ sắp làm quốc mẫu, chẳng trách giật mình!
Nói rồi từ giã mẹ. Ðến lúc đi, bảo Ðiêu Thuyền rằng:
– Ta làm thiên tử, sẽ lập nàng làm quý phi.
Ðiêu Thuyền đã biết rõ mọi chuyện, giả cách hớn hở mừng rỡ, lạy tạ.
Trác lên xe về Trường An, quân sĩ đi tiễn tiền hô hậu ủng. Ði chưa được ba mươi dặm, tự nhiên xe gẫy một bánh. Trác xuống xe cưỡi ngựa, đi chưa được mười dặm, ngựa tự dưng l*иg lên gầm thét dữ tợn, lôi đứt dây cương.
Trác hỏi Lý Túc:
– Xe gẫy bánh, ngựa đứt dây cương, là điềm thế nào?
Túc nói:
– Thế là cái điềm Thái Sư nối ngôi nhà Hán, thay cũ đổi mới. Từ nay Thái Sư sẽ ngồi kiệu ngọc yên vàng.
Trác nghe lấy làm lọt tai.
Hôm sau đương đi bỗng có cơn gió dữ nổi lên ầm ầm, mây kéo nghịt trời, Trác lại hỏi Túc:
– Thế là điềm gì?
Túc nói:
– Chúa công sắp lên ngôi rồng, cho nên mới có những ráng hồng mây tía, để thêm oai trời.
Trác lại mừng không lo gì nữa.
Khi Ðổng Trác đến Trường An, trăm quan đều ra đón rướt, duy có Lý Nho cáo bệnh ở nhà không ra đón.
Trác đến tướng phủ, Lữ Bố vào mừng.
Trác nói:
– Hễ ta làm vua, Phụng Tiên sẽ thống lĩnh cả binh mã trong thiên hạ.
Bố lạy tạ rồi nghỉ ngay ở dưới trướng.
Ðêm hôm ấy, có một lũ trẻ đi ngoài đường hát rong, gió đưa tiếng hát vào tận màn.
Hát rằng:
Thiên lý thảo
Hà thanh thanh
Thập nhật bốc
Bất đắc sinh!
(Cỏ ngàn dặm
Sao xanh xanh?
Trên mười ngày
Chẳng được sống)
Tiếng hát nghe thực ai oán.
Trác nghe thấy mới hỏi Lý Túc:
– Trẻ hát như thế, hay dở thế nào?
Túc thưa:
– Thế nghĩa là họ Lưu sắp mất, họ Ðổng sắp lên.
Mờ mờ sáng hôm sau Trác sai bày ghi vệ, rồi bắt kẻ hầu người hạ, đi theo vào trong triều. Bỗng thấy một đạo quân áo xanh, khăn trắng, tay cầm một cái sào dài trên buộc mảnh vải dài một trượng, hai đầu viết hai chữ khẩu .
Trác lại hỏi Lý Túc:
– Người ấy là người thế nào?
Túc nói:
– Hắn là một thằng rồ.
Rồi bảo tướng sĩ cứ việc đẩy xe đi.
Trác vào đến triều, các quan đều mặc áo trào, đứng đón cả hai bên đường. Lý Túc tay cầm thanh bảo kiếm, vịn xe Ðổng Trác đẩy đi. Ðến cửa Bắc Dịch, quân sĩ đều bị ngăn cả lại ở ngoài cửa, chỉ có hai mươi người được đẩy xe đi vào.
Trác vào khỏi cửa, thấy bọn Vương Doãn, ai nấy đều cầm kiếm đứng ở điện, sợ hỏi Lý Túc:
– Họ cầm kiếm là ý gì?
LÝ Túc không trả lời, cứ việc đẩy xe thẳng vào.
Vương Doãn bấy giờ mới thét to lên rằng:
– Phản tặc đã đến đây, võ sĩ đâu?
Hai bên hơn một trăm võ sĩ kéo ra, người cầm gươm, kẻ vác dao, cùng đổ xô lại đâm Ðổng Trác. Trác mặc áo giáp ở trong, giáo đâm không thủng, chỉ bị thương ở tay, ngã xuống xe, Trác gọi to lên rằng:
– Con ta Phụng Tiên đâu?
Lữ Bố đứng ở đằng sau, nghe thấy gọi đến tên, bèn thét to lên một tiếng rồi chạy ra nói rằng:
– Nay ta vâng chiếu vua gϊếŧ thằng giặc này!
Một ngọn kích đâm trúng ngay cổ họng Ðổng Trác, Lý Túc liền cắt đầu Trác, lấy tay xách lên.
Lữ Bố tay trái cầm kích, tay phải thò vào bọc, lấy tờ chiếu ra, nói to lên rằng:
– Phụng chiếu vua, gϊếŧ được tặc thần là Ðổng Trác rồi, còn các người khác tha cho cả!
Các tướng sĩ đều reo:
– Vạn tuế!
Ðời sau có thơ rằng:
Bá nghiệp thành công hóa đế vương
Không thành cũng vẫn được giàu sang
Ai biết lòng trời không thiên vị
My thành ra đất nát hoang.
Lữ Bố lại hô lên rằng:
– Giúp Ðổng Trác làm điều tàn ngược, đều tự Lý Nho cả, ai đi bắt nó cho ta?
Lý Túc xin đi.
Chợt có tiếng reo ngoài cửa triều rồi có người vào báo rằng:
– Người nhà Lý Nho đã trói Lý Nho đem lại nộp.
Vương Doãn sai điệu Lý Nho ra chợ chém; rồi lại sai đem đầu và thây Ðổng Trác đi diễu, loan báo khắp các ngả đường cho mọi người cùng biết.
Thây Trác to béo, quân sĩ lấy mồi cắm vào rốn đốt lửa làm đèn, mỡ chảy đầy cả ra đường cái; nhân dân ai đi qua cũng lấy gạch đá ném vào đầu, lấy chân đạp vào thây.
Vương Doãn lại sai Lữ Bố cùng với Hoàng Phủ Tung, Lý Túc lĩnh năm vạn quân đến My bắt người nhà Ðổng Trác và tịch biên gia sản.
Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù, nghe tin Trác đã chết, mà Lữ Bố thì đến My , liền dẫn quân phi hùng, ngay đêm hôm ấy chạy ra Lương Châu.
Lữ Bố đến My , trước hết tìm Ðiêu Thuyền.
Hoàn Phủ Tung sai đem những con gái nhà lương thiện bị Ðổng Trác bắt hϊếp vào làm tỳ thϊếp, tha cho về nhà cả. Còn bao nhiêu họ hàng thân thuộc nhà Ðổng Trác, không cứ lớn bé già trẻ đều đem ra gϊếŧ sạch. Mẹ Trác cũng bị gϊếŧ, em Trác là Ðổng Mẩn, cháu Trác là Ðổng Huynh cũng bị chém, đầu bêu đi các ngã ba. Lại tịch thu những của cải chứa ở trong nhà, vàng vài mươi vạn lạng, bạc vài trăm vạn lạng, vốc, nhiễu, châu báu, đồ đạc không biết bao nhiêu mà kể. Xong rồi Tung về báo với Vương Doãn biết.
Doãn khao thưởng quân sĩ thực to, mở tiệc yến ở lễ đường tướng phủ, họp cả các quan lại uống rượu ăn mừng.
Ðang ăn bỗng có người vào báo rằng:
– Thây Ðổng Trác đang phơi ở chợ, bỗng có một người đến cúi xuống thây khóc vang lên.
Doãn giận lắm, quát rằng:
– Gϊếŧ được Ðổng Trác, quan dân ai ai cũng mừng cả, đứa nào lại dám khóc? Võ sĩ đâu, ra trói cổ hắn điệu vào đây ta hỏi?
Một lát quân dẫn người khóc vào, tưởng là ai, hóa ra quan Thị Trung Sái Ung. Doãn tức giận nói:
– Nay trừ được thằng giặc Ðổng Trác đi, là may cho xã tắc lắm. Ngươi là bề tôi nhà Hán, đã không mừng cho xã tắc, lại khóc thằng giặc là cớ làm sao?
Ung xin nhận tội nói rằng:
– Tôi tuy chẳng ra gì, cũng có biết đôi điều nghĩa lớn lẽ đâu lại theo Ðổng Trác. Nhưng vì tôi với Trác có chút ơn tri ngộ, nên tôi tự cảm xúc thương khóc. Tôi cũng biết như thế là có tội nặng. Nhưng xin ngài hãy rộng thứ cho: nếu bị thích chữ vào mặt, chặt chân nhưng vẫn được sống chép nốt pho Hán sử để chuộc tội, thì may cho tôi quá!
Các quan tiếc Ung là người tài, ai cũng cố sức nói hộ. Quan Thái Phó là Mã Nhật Ðề cũng ghé vào tai Doãn nói thầm rằng:
– Sái Ung là người tài, không mấy đời có được. Ðể cho hắn sống làm nốt pho Hán sử cũng là một điều hay! Vả lại Ung là một người hiếu hạnh, nay đem gϊếŧ đi, e mất lòng thiên hạ.
Doãn nói:
– Ngày xưa, vua Hiếu Vũ không gϊếŧ Tư Mã Thiên. Sau để cho Tư Mã Thiên chép nốt sách sử, vì thế cho nên mới có sách sử gièm pha truyền đến bây giờ. Nay đang lúc vận nước suy yếu, chính sự nhầm lẫn, không nên để kẻ nịnh thần cầm bút ở bên mình ấu chúa, chúng ta sẽ bị hắn chê cười.
Mã Nhật Ðê không nói gì nữa, đi trở ra, nói riêng với các quan rằng:
– Vương Doãn cũng không toàn mệnh được đâu! Người hiền là rường mối nhà nước, sách sử là điển cố nhà nước. Bỏ cả rường mối, đứt cả điển cố, bền lâu làm sao được?
Doãn không nghe lời Mã Nhật Ðê, sai bỏ Sái Ung vào ngục, bắt phải thắt cổ chết.
Các sĩ phu bấy giờ nghe thấy chuyện, ai cũng thương khóc.
Người đời sau bàn rằng Ung khóc Ðổng Trác đã là không phải, nhưng Doãn gϊếŧ Ung thì cũng là quá lắm.
Có thơ than Ung rằng:
Ðổng Trác chuyên quyền thật bất nhân
Ung sao rước lấy vạ vào thân?
Bấy giờ Gia Cát nằm trong núi
Ðâu chịu ra thờ kẻ loạn thần?
Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù trốn sang Thiểm Tây, sai người đến Trường An, dâng biểu xin tha tội.
Vương Doãn nói:
– Ðổng Trác làm loạn, là bởi bốn đứa giúp cả. Nay tuy đại xá thiên hạ, duy bốn đứa ấy không thể tha được.
Sứ giả về báo Lý Thôi, Thôi nói:
– Xin tha không được, thì cùng đi trốn cả là xong!
Mưu sĩ là Giả Hủ bàn rằng:
– Các ông bỏ quân mà đi trốn một mình thì chỉ một người đình trưởng, cũng bắt trói lại được. Chi bằng ta dụ tập người Thiểm Tây, và quân mã của mình, kéo thẳng vào Trường An đánh báo thù cho Ðổng Công. Ðược ra thì lấy danh nghĩa triều đình mà hiệu lệnh thiên hạ. Ngộ thua, bấy giờ sẽ chạy cũng chưa muộn.
Bọn Lý Thôi lấy làm phải, liền nói phao lên ở Tây Lương rằng:
– Vương Doãn muốn gϊếŧ sạch cả người ở Tây Lương.
Dân chúng đều sợ hãi.
Lũ Lý Thôi lại nói khích rằng:
– Chịu chết uổng cũng vô ích, có ai theo ta làm phản không?
Dân chúng xin theo cả. Bởi thế lũ Lý Thôi mộ được hơn mười vạn quân, chia làm bốn đường, kéo vào Trường An. Ði đường lại gặp con rể Ðổng Trác là Trung Lang tướng Ngưu Phụ, đem năm ngàn quân đi báo thù cho cha vợ.
Lý Thôi hợp hai toán làm một, sai Phụ làm tiền khu đi trước, bốn tướng dần dần kéo đi sau.
Vương Doãn nghe thấy binh Tây Lương kéo đến bèn bàn với Lữ Bố. Bố nói:
– Tư Ðồ đừng lo. Tôi coi chúng nó như đàn chuột!
Rồi cùng với Lý Túc đem quân ra. Túc đi trước nghênh địch, cùng Ngưu Phụ đánh nhau một trận.
Phụ chống không nổi, thua chạy.
Chẳng ngờ canh hai đêm hôm ấy, nhân lúc Túc không phòng bị, Ngưu Phụ kéo quân đến cướp trại Lý Túc. Quân Túc rối rít bỏ trại chạy ra hơn ba mươi dặm, chết mất quá nửa. Túc vào ra mắt Lữ Bố. Bố nổi giận mắng rằng:
– Sao ngươi dám làm mất nhuệ khí của ta?
Nói rồi liền chém đầu Lý Túc, treo đầu ở cửa quân.
Hôm sau Lữ Bố tiến binh, cùng Ngưu Phụ đối địch. Phụ địch sao nổi được Bố, cho nên lại thua chạy. Ðêm hôm ấy Ngưu Phụ gọi tướng tâm phúc tên là Hồ Xích Nhi bảo rằng:
– Lữ Bố kiêu dũng lắm, thế khó địch nổi. Sao bằng ta không cho bọn Lý Thôi biết, ngầm giấu vàng bạc, châu báu, đem vài ba người thân tín, bỏ trốn đi.
Hồ Xích Nhi ưng thuận. Ngay đêm hôm ấy Ngưu Phụ nhặt nhạnh vàng bạc, châu báu bỏ trại đi, chỉ đem ba bốn người đi theo. Ði đến một con sông, lúc sắp qua đó, Hồ Xích Nhi trông thấy của cải ngốt mắt, muốn chiếm lấy một mình, liền gϊếŧ Ngưu Phụ đem đầu Phụ đến dâng Lữ Bố.
Bố hỏi đầu đuôi, người đi theo khai rằng:
– Xích Nhi gϊếŧ Phụ để lấy của.
Bố giận, lập tức gϊếŧ ngay Xích Nhi.
Lữ Bố dẫn quân tiến lên, gặp ngay quân mã Lý Thôi kéo đến. Bố không đợi cho bày trận, vác kích tế ngựa thúc quân xông vào, quân Lý Thôi không chống được, lui hơn năm mươi dặm, dựa vào sườn núi cắm trại.
Lý Thôi cho mời Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù lại bàn rằng:
– Lữ Bố tuy khỏe nhưng vô mưu, không lo sợ mấy. Nay ta đóng quân ở cửa hang, mỗi ngày ra khiêu chiến một lần. Quách tướng quân thì lĩnh quân đánh ở mặt sau, bắt chước lối Bành Việt quấy rối Sở ngày xưa. Nghe khua chiêng thì tiến binh, nghe đánh trống thì rút quân. Trong khi ấy thì hai ông chia quân ra hai đường đi tắt vào lấy Trường An. Bên nó đầu đuôi không tiếp ứng được nhau, tất nhiên sẽ thua.
Mọi người dùng kế ấy.
Lữ Bố dẫn quân đến dưới núi, Lý Thôi đem binh ra đánh, Bố hầm hầm xông vào trận. Thôi lui chạy lên núi. Trên núi tên đá bắn xuống như mưa, Bố không lên được. Chợt có người báo rằng:
– Quách Dĩ ở đằng sau đánh lại.
Bố vội vàng quay lại đánh, nhưng nghe thấy tiếng trống vang lên, quân Dĩ đã lui rồi. Bố vừa toan thu quân, thì một chiên khua, quân Thôi trên núi lại đánh xuống. Bố chưa kịp đối địch, đằng sau Quách Dĩ lại tiến lên đánh. Khi Lữ Bố trở lại thì Dĩ lại đánh trống rút quân về. Lữ Bố tức đầy ruột, ròng rã bốn hôm, Bố muốn đánh khống đánh được, muốn thôi cũng không thôi được. Ðang lúc tức mình có thám mã lại báo rằng:
– Trương Tế, Phàn Trù, hai cánh quân mã kéo vào Trường An, kinh thành nguy cấp lắm!
Bố vội vàng thu quân về, Lý Thôi, Quách Dĩ nhân thế đánh dấn lại. Bố vội quá không tham đánh nữa, chỉ tháo đường chạy về kinh cho nhanh, người ngựa xốn xáo tổn thất khá nhiều. Khi Bố về đến Trường An, thấy quân giặc đông nghịt, chẳng khác mây che mưa phủ, vây kín thành trì, Bố đánh không được. Quân sĩ thấy Bố hung bạo, bỏ đi theo giặc khá nhiều. Bố lo lắm.
Vài hôm sau, dư đảng của Ðổng Trác là Lý Mông, Vương Phương ở trong thành làm nội công cho giặc, mở trộm cửa thành, bốn mặt giặc kéo ùa cả vào. Lữ Bố hết sức chống cự không nổi, dẫn vài trăm quân kỵ mã đến trước của Thanh Tòa, gọi Vương Doãn bảo rằng:
– Thế nguy cấp lắm rồi, xin Tư Ðồ lên ngựa, cùng ra cửa quan với tôi, ta sẽ tìm kế khác.
Doãn cứ vững vàng nghiêm chỉnh như không, nói rằng:
– May ra nhờ thần linh xã tắc nhà nước được yên là sở nguyện của tôi; nếu không tôi xin đem thân cùng chết với nước. Gặp hoạn nạn mà bỏ trốn tránh để thoát thân, thì tôi không làm. Xin Ôn Hầu vì tôi mà nói với các bạn ở Quan Ðông hết sức lo tính việc nước.
Lữ Bố hai ba lần giục. Doãn nhất định không đi.
Ðược một lúc, các cửa thành lửa cháy ngùn ngụt, Lữ Bố phải bỏ cả vợ con, dẫn hơn một trăm quân kỵ mã chạy ra ngoài cửa ải, đi theo Viên Thuật.
Lý Thôi, Quách Dĩ thả cho quân tha hồ cướp bóc, Quan thái thường khanh Chủng Phất, quan thái bộc Lỗ Quỳ, quan đại hồng lô Chu Hoàn, thành môn hiệu úy Thôi Liệt, việt kỵ hiệu úy Vương Kỳ đều chết vì nạn nước.
Quân giặc vây kín nội đình. Các thị thần tâu xin vua lên cửa Tuyên Bình để dẹp loạn. Lúc vua lên cửa lũ Lý Thôi trông thấy lọng vàng, liền dừng ngựa lại, miệng hô vạn tuế.
Vua Hiến Ðế đứng trên lầu hỏi rằng:
– Các ngươi chưa tâu xin, dám tự tiện vào Trường An, ý các ngươi muốn làm gì?
Thôi, Dĩ ngẫng lên tâu rằng:
– Muôn tâu bệ hạ, Ðổng Thái Sư là bầy tôi nhà vua tự dưng bị Vương Doãn mưu gϊếŧ. Nay chúng tôi đến tìm Vương Doãn để báo thù cho Ðổng công, chứ không dám làm phản. Chúng tôi được trong thấy Vương Doãn xin rút quân ngay.
Vương Doãn bấy giờ đứng ở cạnh vua, nghe thấy nói thế, tâu rằng:
– Tôi nguyện vì nước gϊếŧ Trác. Nay chẳng may sự đến thế này, xin bệ hạ đừng tiếc tôi mà lỡ việc nước ra. Tôi xin xuống gặp hai tên giặc.
Vua dùng dằng không nỡ. Doãn từ trên lầu Tuyên Bình nhảy xuống đất, quát to lên rằng:
– Vương Doãn đây!
Lý Thôi, Quách Dĩ rút gươm ra mắng rằng:
– Ðổng Thái Sư có tội tình gì mà ngươi gϊếŧ?
Doãn nói:
– Tội Ðổng Trác đầy trời suốt đất, nói sao cho xiết. Hôm hắn chết ở Trường An, từ quan chí dân, ai là không mừng, các ngươi lại không biết à?
Thôi, Dĩ lại hỏi rằng:
– Ừ, Ðổng Thái Sư có tội đã đành, chúng ta thì có tội gì, sao xin tha cũng không được?
Vương Doãn chửi rầm lên mà mắng rằng:
– Nghịch tặc nói làm chi cho lắm! Vương Doãn ta chỉ chờ chết mà thôi.
Thôi, Dĩ gϊếŧ Doãn ngay dưới lầu.
Sử quan có thơ khen Vương Doãn rằng:
Vương Doãn bày mưu hay,
Gian thần bị gϊếŧ ngay.
Thương dân nên tức ruột,
Xót nước lại chau mày.
Sao tỏ, lòng trung giãi.
Mây cao, khí nghĩa đầy.
Ðến nay hồn vía ấy,
Quanh quất Phượng Lâu này.
Lũ Lý Thôi gϊếŧ Vương Doãn xong rồi, một mặt sai người bắt cả họ hàng nhà Doãn gϊếŧ sạch.
Sĩ dân ai nấy đều thương khóc.
Lý, Quách lại bàn nhau rằng:
– Ðã đến thế nầy, còn vua không gϊếŧ nốt để mưu việc lớn, còn đợi đến bao giờ?
Hai đứa cầm gươm reo to, kéo vào trong cung.
Thế rõ thực:
Ðầu sỏ tạ tội, tai nạn hết
Gặp quân tặc đảng lại sinh nguy.
Chưa biết tính mệnh vua Hiến Ðế ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.