Ðổng Trác muốn gϊếŧ Viên Thiệu, Lý Nho can rằng:
– Việc chưa định xong không nên gϊếŧ càn.
Viên Thiệu tay cầm thanh bảo kiếm, cáo từ các quan trở ra, treo trả cờ tiết ở cửa đông rồi bỏ về Ký Châu.
Trác bảo với quan thái phó Viên Ngỗi rằng:
– Cháu ngươi vô lễ, ta tha cho hắn cũng là nể ngươi. Việc phế vua lập Trần Lưu, ngươi nghĩ thế nào?
Ngỗi thưa rằng:
– Thái úy nghĩ thế phải đấy!
Trác lới nói:
– Ai dám ngăn trở việc lớn này, thì ta sẽ lấy phép quân trị tội.
Các quan sợ hãi, đều nói:
– Ngày dạy thế xin vâng!
Cuộc yến tan, Trác hỏi quan Thị Trung là Chu Bật và quan Hiệu Úy là Ngũ Quỳnh rằng:
– Viên Thiệu phen này đi, rồi sẽ ra sao?
Chu Bật đáp:
– Viên Thiệu câm giận mà đi, hễ truy nã riết quá tất sinh biến. Vả lại họ Viên, đã bốn đời làm quan đến bậc tam công, thiên hạ được nhờ nhiều lắm; học trò, đầy tớ đâu đâu củng có. Nếu hắn thu dùng hào kiệt, tập họp đồ đảng, rồi những anh hùng trong thiên hạ nhân đó khởi lên, đất Sơn Ðông sẽ không ở trong tay ông nữa. Không bằng ông tha tội hắn, cho hắn một chức quận thú gì đấy, thì hắn mừng được khỏi tội, sẽ không gây ra hậu hoạn nữa.
Ngũ Quỳnh nói:
– Viên Thiệu là người thích mưu kế, nhưng không quyết đoán, không đánh lo cho lắm. Bất nhược cứ cho hắn một chức quận thú để thu phục lòng dân!
Trác nghe lấy làm phải, ngay hôm ấy sai người đến phong cho Thiệu làm thái thú quận Bột Hải.
Ðến mồng một tháng chín, Trác rước vua ra ngự đền Ôn Ðức, họp hết cả văn võ lại.
Trác tay cầm kiếm nói rằng:
– Thiên tử ngu yếu, không trị vì được, nay có một bài sách văn đọc cho các quan nghe.
Rồi sai Lý Nho tuyên đọc:
“Vua Hiếu Linh mất sớm, vua sau nối ngôi, bốn bề ai ai cũng trông mong.
Nay xét ra vua ta, thiên tử mỏng mảnh, kém vẻ uy nghi nghiêm chỉnh, cư tang biếng nhác, đức xấu đã rõ, không xứng ngôi lớn.
Hoàng thái hậu không có uy nghi của người mẹ, nhϊếp chính rối tung. Việc bà Vĩnh Lạc thái hậu mất, dân chúng có nhiều dị nghị. Ðối với đạo tam cương và đường Trời đất, phải chăng có thiếu sót nhiều?
Trần Lưu Vương tên Hiệp, đức hạnh nghiêm trang, khuôn phép kính cẩn, cư tang thương xót, nói năng chính đính, lời hay tiếng tốt, thiên hạ ai ai cũng biết. Nên nối ngôi vua, làm phép cho vạn thế!
Nay phế vua ra làm Hoằng Nông Vương, thái hậu thì phải trả quyền chính.
Xin tôn Trần Lương Vương lên làm hoàng đế,
Ứng thiên, thuận nhân, để yên bụng thiên hạ!”
LÝ Nho đọc xong bài chiếu, Trác thét tả hữu vực vua xuống điện, lột tỉ thụ, bắt quỳ, ngoảnh mặt về phương Bắc, xưng thần nghe chiếu, lại bắt Hà thái hậu, cởi đồ phẩm phục ra mà đợi chiếu.
Vua và Thái hậu kêu khóc, quần thần trông thấy ai cũng xót xa bi thảm.
Lúc ấy ở dưới thềm có một viên quan to, tức tối thét to lên rằng:
– Thằng giặc Ðổng Trác kia, ngươi dám lập mưu lừu trời dối đất, ta lấy máu cổ họng bôi vào mặt ngươi bây giờ!
Nói rồi cầm cái hốt ngà xông thẳng vào đánh Ðổng Trác.
Trác giận lắm, sai võ sĩ bắt lại xem ai, thì là quan thượng thư Ðinh Quản. Trác sai đem ra chém. Quản cứ luôn mồm chửi mắng Ðổng Trác cho đến lúc chết; chết rồi, thần sắc vẫn như lúc sống.
Người sau có thơ than rằng:
Giặc Ðổng lòng mang dạ khuyển lang
Cơ đồ nhà Hán đổ tan hoang,
Trong triều văn võ mồm câm cả
Chỉ có Ðinh công thực giỏi giang!
Trác mời Trần Lưu Vương lên điện, Quần thần làm lễ mừng xong rồi. Trác sai bắt Hà thái hậu, vua và vợ vua là Ðường thị giam ở cung Vĩnh An, khóa cửa cung, cấm quần thần, không ai được vào thăm.
Thương thay! Thiếu đế mới lên ngôi tháng tư, đến tháng chín đã phải phế.
Trầu Lưu Vương, nhờ Trác được lên ngôi trời, vốn tên là Hiệp, tên chữ là Bá Hòa, là con thứ vua Linh đế, tức là Hiến đế về sau. Lúc lập lên, Hiến đế mới lên chín tuổi, đổi niên hiệu năm đầu là Sơ Bình.
Ðổng Trác làm tướng quốc, lạy vua không phải xưng tên, vào chầu không phải bước rảo, lên điện được đeo kiếm, tác uy tác phúc, không ai bì được.
Lý Nho khuyên Trác nên dùng những người có danh vọng để thu phục lòng người; nhân thể Lý Nho tiến cử tài năng Sái Ung. Trác cho mời Sái Ung, Ung không chịu đến. Trác giận sai người bảo Ung hễ không đến thì gϊếŧ cả họ. Ung sợ, phải đến. Trác thấy Ung đến, mừng lắm, một tháng thăng chức ba lần, làm đến chức Thị Trung. Trác rất hậu đãi Ung.
Thiếu đế, Hà thái hậu và Ðường phi bị giam ở cung Vĩnh An, đồ ăn, thức mặc, mỗi ngày một kém. Thiếu đế không lúc nào ráo nước mắt.
Một hôm Thiếu đế trông thấy hai con chim én bay ở trong sân, ngâm một bài thơ rằng:
Xanh xanh khóm cỏ dày
Cặp én phất phơ bay.
Trong veo dòng lạc thủy,
Người đồng nội khen hay.
Xa trông mây thăm thẳm,
Cung điện cũ ta đây.
Biết ai kẻ trung nghĩa,
Gỡ cho oán hận này!
Ðổng Trác thường sai người đến dò ý tứ; hôm ấy có kẻ bắt được bài thơ đem trình Ðổng Trác, Trác nói rằng:
– Làm bài thơ oán vọng này, đem gϊếŧ đi là có cớ rồi!
Bèn sai Lý Nho và mười võ sĩ vào cung gϊếŧ vua!
Vua, thái hậu và Ðường phi đương ở trên lầu, thấy người cung nữ báo rằng có Lý Nho đến, vua sợ giật mình.
Nho đem rượu thuốc độc dâng vua.
Vua hỏi việc gì. Nho thưa:
– Ngày xuân mát mẻ, Ðổng tướng quốc sai tôi đem dâng chén rượu thọ.
Thái hậu bảo Lý Nho:
– Có phải rượu thọ thì ngươi thử uống trước đi!
Nho giận lắm, hỏi vua:
– Ngươi không uống phải không?
Rồi gọi tả hữu cầm con dao với tấm lụa trắng, để trước mặt vua, mà nói rằng:
– Rượu thọ chẳng uống, thì phải chọn hai thứ này.
Ðường phi quỳ xuống nói rằng:
– Thϊếp xin thay vua uống chén rượu này, xin ngài để toàn mệnh cho hai mẹ con vua.
Lý Nho quát mắng:
– Ngươi là đứa nào, mà dám đòi chết cho vua?
Nho cầm chén rượu đưa cho Hà thái hậu và bảo rằng:
– Bà phải uống trước đi!
Hà thái hậu nhiếc mắng Hà Tiến là đồ vô mưu, đem giặc vào kinh đô, để có cái vạ ngày nay.
Nho bức vua phải uống rượu.
Vua nói:
– Hãy khoan! Ðể ta cùng thái hậu từ biệt đã.
Vua đau xót lắm, làm bài ca như sau:
Trời đất chao, trăng sao cũng đổ
Bỏ ngôi cao, ra chỗ phiên phong
Bởi ai nên sự lạ lùng?
Việc đời ngán ngẩm, ròngròng châu tuôn.
Ðường phi cũng làm bài ca rằng:
Trời nghiêng đất lại lở tan,
Phận mình thê thϊếp, trái oan lạ thường!
Tử sinh nay đã khác đường,
Một người một bóng xót thương tấm lòng!
Vua và Ðường phi ca rồi, ôm nhau mà khóc. Lý Nho lại quát mắng:
– Tướng quốc đứng chờ tin! Các người dùng dằng để mong ai cứu đấy?
Thái hậu thét mắng:
– Thằng giặc Ðổng kia! Ngươi hại mẹ con ta, rồi trời lại hại ngươi! Chúng bay tùng đảng với nhau làm điều ác, rồi chúng bay sẽ bị gϊếŧ cả họ cho mà xem!
Nho tức lắm, hai tay ôm lấy thái hậu ném xuống dưới lầu, gϊếŧ chết; lại sai võ sĩ thắt cổ Ðường phi, rót rượu độc bắt Thiếu đế uống chết, rồi về báo Ðổng Trác.
Trác sai đem táng ba mẹ con ở ngoài thành.
Tự bấy giờ, Trác đêm nào cũng vào cung thông da^ʍ với các cung nữ, rồi thì lên ngủ trên sập rồng.
Thường thường Trác hay đem quân ra ngoài thành. Một bữa Trác đến Dương Thành. Bấy giờ đang tháng hai, dân mở hội hát, con trai con gái tụ họp nhau xem hội rất đông. Trác sai quân vây cả lại, rồi gϊếŧ sạch, cướp đàn bà con gái và của cải chất đầy xe, treo hơn một ngàn đầu lâu ở dưới xe, nối đuôi nhau kéo về kinh đô, nói phao lên rằng đi đánh giặc thắng trận.
Trác lại sai đốt đầu lâu người ở dưới cửa thành, còn đàn bà con gái và của cải thì đem chia cho quân sĩ.
Quan việt kỵ hiệu úy tên là Ngũ Phu, tên chữ là Ðức Du, thấy Ðổng Trác tàn bạo quá, tức lắm, thường mặc áo giáp nhỏ vào trong áo đại trào, giắt một con dao ngắn, rình tiện dịp để gϊếŧ Trác.
Một hôm Trác vào chầu, Phu ra đón. Lúc Trác đến dưới gác. Phu rút dao ra đâm, không ngờ sức Trác khỏe hơn, hai tay ôm chặt được Phu, Lữ Bố trông thấy, chạy lại ôm Phu ra vật ngã xuống. Trác hỏi Phu rằng:
– Ai xui ngươi làm phản?
Phu trợn mắt thét mắng rằng:
– Ngươi không phải là vua ta, ta không phải là tôi ngươi, sao lại gọi là phản được? Tội ngươi đầy trời, ai ai là chẳng muốn gϊếŧ ngươi? Ta tiếc rằng không xé nhỏ được xác ngươi ra để tạ thiên hạ!
Trác tức lắm, sai Phu đem ra mổ. Phu cứ mắng chửi Ðổng Trác không buông miệng cho đến lúc chết.
Ðời sau có thơ khen Ngũ Phu rằng:
Ngũ Phu này cũng bậc anh hùng,
Tiết liệt xem ai được thế không?
Ðánh giặc, hãy còn danh tiếng để,
Ngàn thu vằng vặc mảnh gương chung!
Ðổng Trác từ khi ấy ra vào trường có quân sĩ mặc áo giáp đi theo hộ vệ.
Viên Thiệu bấy giờ ở Bột Hải, nghe thấy Trác lộng quyền, sai người đưa mật thư cho tư đồ Vương Doãn, thư rằng:
Giặc Trác dối trời bỏ chúa. Người ta đau xót đến nỗi không nỡ nói, thế mà ông cứ mặc kệ, để nó lăng ngược như con cá nhảy vượt qua đăng, làm thin như không nghe không thấy, sao gọi là người trung thần ái quốc! Thiệu nay chiêu tập binh mã cũng muốn vì nhà vua, quét sạch quân giặc, nhưng chưa dám khinh động. Ông nếu cùng lòng với tôi, xin tìm cơ hội lo tính ngay đi. Có việc gì sai khiến, tôi xin vâng mệnh.
Vương Doãn được thư, nghĩ mãi không tìm được kế gì. Một hôm đang lúc chầu ở nội các, Doãn thấy ở đó có đủ mặt các cựu thần, bèn nói với các quan rằng:
– Hôm nay là sinh nhật lão phu. đến chiều xin mời các quan quá bước đến nhà lão phu xơi rượu.
Các quan đều nhận lời, hẹn đến chiều sẽ đến chúc thọ.
Chiều hôm ấy Doãn mở tiệc ở hậu đường. Các quan đến cả. Rượu được vài tuần, tự nhiên Doãn che mặt hu hu khóc.
Các quan giật mình hỏi rằng:
– Hôm nay là sinh nhật của quan tư đồ, sao ngài lại khóc như vậy?
Doãn thưa rằng:
– Hôm nay có phải là sinh nhật của tôi đâu! Tôi vì có một việc muốn nói với các vị, nhưng sợ Ðổng Trác sinh nghi, cho nên mượn cớ nói thác ra thế. Thằng Trác dối vua lộng quyền, xã tắc nay mai đổ mất. Ðức Cao Hoàng ngày xưa đánh nhà Tần, diệt nước Sở, bao nhiêu công phu mới nên được cơ đồ này, ngờ đâu nay mất vào tay thằng Ðổng Trác. Tôi khóc là vì thế!
Các quan nghe nói cũng đều khóc cả.
Trong đám ngồi có một người, vỗ tay cười ầm lên mà nói rằng:
– Các quan thử khóc từ tối đến sáng, lại khóc từ sáng đến tối, xem khóc có chết được thằng Ðổng Trác không?
Doãn ngoảnh lại xem ai, thì là kiêu kỵ hiệu úy Tào Tháo. Doãn giận nói rằng:
– Tổ tôn nhà ngươi cũng ăn lộc nhà Hán, sao nhà ngươi không biết nghĩ cách báo quốc, lại còn cười à?
Tháo nói:
– Tôi cười, có phải cười gì đâu! Cười là cười các quan không biết nghĩ kế gì trừ được thằng Ðổng Trác. Tháo nay tuy không có tài cán gì, nhưng xin lập tức chặt được đầu thằng Ðổng Trác, treo ở cửa phủ để tạ thiên hạ.
Doãn liền đứng dậy hỏi rằng:
– Mạnh Ðức có kế gì tài thế?
Tháo nói:
– Tôi lâu nay sở dĩ nép mình thờ Ðổng Trác cũng là vì muốn thừa cơ gϊếŧ nó. Nay nó rất tin tôi, tôi được gần nó luôn. Nghe quan tư đồ có con dao thất bảo, xin cho tôi mượn. Tôi nguyện phen nầy vào tận tướng phủ đâm chết thằng giặc Ðổng Trác, dẫu chết cũng không oán hận gì.
Vương Doãn mừng lắm nói rằng:
– Nếu Mạnh Ðức có bụng như thế, thực là may cho thiên hạ lắm!
Doãn thân hành rót chén rượu mời Tào Tháo. Tháo đổ rượu , cất lời thề. Doãn bèn đem dao thất bảo đưa cho. Tháo uống rượu xong, giắt dao đứng dậy đi ra. Các quan ngồi một lát rồi cũng về cả.
Hôm sau Tháo giắt dao đến tướng phủ, hỏi:
– Thừa tướng ở đâu?
Ðầy tớ nói:
– – trong gác.
Tháo vào, thấy Trác ngồi trên giường; Lữ Bố đứng hầu bên cạnh.
Trác thấy Tào Tháo vào, hỏi rằng:
– Sao hôm nay Mạnh Ðức đến chậm thế?
Tháo nói:
– Thưa, ngựa tôi gầy hóa đi chậm.
Trác ngoảnh lại bảo Lữ Bố rằng:
– Ta có ngựa tốt ở Tây Lương mới tiến. Phụng Tiên đi chọn một con đem lại đây cho Mạnh Ðức.
Bố vâng lời đi lấy ngựa. Tháo thấy còn một mình Trác, bụng đã bảo dạ rằng:
– Thằng này số nó đến lúc chết đây!
Lập tức muốn rút dao đâm ngay, nhưng lại sợ Trác khoẻ chưa dám đâm vội.
Trác mình mẩy to béo, xưa nay không ngồi được lâu, bèn ngả mình nằm xuống; ngoảnh mặt vào trong. Tháo lại nghĩ rằng:
– Thằng nầy thực số chết!
Liền rút dao ra, chực đâm. Không ngờ Trác trông vào trong cái gương, thấy bóng Tào Tháo rút dao ra ở sau lưng, vội vàng quay đầu lại hỏi:
– Mạnh Ðức làm gì thế?
Bấy giờ Lữ Bố vừa giắt ngựa đến ngoài gác. Tháo tay đương cầm con dao, vội quỳ xuống thưa:
– Tháo tôi có con dao quý xin dâng thừa tướng.
Trác cầm lấy dao xem, thấy dao dài hơn một thước, cán bằng ngọc thất bảo, lưỡi thực sắc, quả là dao quý, bèn đưa cho Lữ Bố cất đi. Tháo còn đeo vỏ dao ở lưng, liền cởi ra, đưa nốt cho Lữ Bố.
Trác đem Tháo ra xem ngựa. Tháo tạ rồi xin phép đem ngựa ra cưỡi thử. Trác sai đem yên cương đóng ngựa cho Tháo. Tháo dắt ngựa ra ngoài cửa tướng phủ, lên yên, rồi ra roi đi nước đại thẳng hướng đông nam mà chạy.
Tào Tháo đi khỏi. Lữ Bố nói với Trác rằng:
– Vừa rồi tôi trông Tào Tháo hình như có ý muốn đâm trộm thái sư! Vì thái sư trông thấy, hắn mới nói lảng ra là đến dâng dao.
Trác nói:
– Ta cũng hơi nghi.
Ðang nói chuyện thì Lý Nho ở đâu đến. Trác hỏi Lý Nho. Nho nói:
– Tháo không có vợ con gì ở kinh, chỉ trọi một mình ở quán trọ, nay nên sai người đến gọi. Hắn đến ngay thì quả là hắn dâng dao thật, nếu thoái thác không đến, thì đích là thích khách. Lúc bấy giờ ta sẽ bắt mà hỏi.
Trác liền sai bốn người coi ngục đi gọi Tào Tháo. Lính đi một hồi lầu rồi trở về trình rằng:
– Tháo không về nhà trọ. Có người gặp hắn cưỡi ngựa ra cửa đông. Lính canh hỏi đi đâu thì hắn nói rằng thừa tướng sai đi có việc kíp, rồi tế ngựa đi thẳng.
Nho nói:
– Thôi, không còn nghi ngờ gì nữa, hắn chột dạ chạy trốn, tất là có bụng hành thích.
Trác nói:
– Ta tin dùng hắn thế, sao hắn lại muốn hại ta?
Nho thưa:
– Tất nhiên có người đồng mưu. Bắt được Tào Tháo thì ra cả.
Trác liền tư đi các nơi, chỗ nào cũng vẽ hình ảnh Tào Tháo ai bắt được sẽ thưởng ngàn vàng, lại phong cho làm vạn hộ hầu; ai chứa chấp sẽ bị trị tội.
Trong khi ấy, Tháo cắm đầu cắm cổ chạy. Chạy đến Tiêu Quận, đi qua huyện Trung Mâu, bị quân canh cửa thành bắt được, đem nộp quan huyện. Tháo khai là khách buôn, họ tên là Hoàng Phủ.
Quan huyện nhìn kỹ Tháo, nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
– Trước ta cầu quản ở Lạc Dương đã được gặp ngươi, chính ngươi là Tào Tháo, ngươi nói dối sao được? Lính đâu, hãy đem giam nó xuống trại, đến mai ta sẽ giải về kinh lãnh thưởng.
Quan huyện nói thế rồi cho quân canh cửa thành cơm no rượu say rồi về.
Ðến nửa đêm, quan huyện sai người thân tín xuống gọi Tào Tháo lên, bảo dẫn vào nhà sau để hỏi. Tháo vào, quan huyện hỏi rằng:
– Ta nghe thừa tướng hậu đãi ngươi, sao ngươi lại tự chuốc lấy vạ vào thân?
Tháo nói:
– Ngươi như chim sẻ biết đâu được chí chim hồng! ựã bắt được ta thì cứ đem nộp mà lấy công, hà tất phải hỏi nhiều!
Quan huyện bèn đuổi cả tả hữu đi rồi bảo Tháo rằng:
– Anh đừng coi thường tôi. Tôi đây không phải là bọn tục lại đâu… Cũng vì chưa gặp được chủ đấy thôi!
Tháo nói:
– Ông cha ta, đời đời ăn lộc nhà Hán. Nếu ta không biết nghĩ cách báo quốc, có khác gì giống muông thú! Ta phải hạ mình thờ thằng Ðổng Trác là muốn tìm cơ hội thuận tiện gϊếŧ nó. Nay việc không xong, cũng là lòng trời!
Quan huyện nói:
– Mạnh Ðức bây giờ định đi đâu?
Tháo nói:
– Ta muốn về làng, phát lời kêu gọi, vời cả chư hầu trong thiên hạ khởi binh gϊếŧ Ðổng Trác. Ðó là sở nguyện của ta!
Quan huyện nghe nói, bèn cởi trói cho Tháo, mời ngồi lên trên rồi thụp xuống lạy hai lạy mà nói rằng:
– Ông thực là người trung nghĩa ở đời này!
Tháo cũng lạy đáp lại, rồi hỏi tên họ, quan huyện nói:
– Tôi họ Trần, tên Cung, tên chữ là Công Ðài; tôi có mẹ già và vợ con ở Ðông Quận. Nay cảm bụng trung nghĩa của ông, xin bỏ chức quan này, theo ông đi trốn.
Tháo mừng lắm. Ngay đêm hôm ấy, Trần Cung thu xếp hành trang và lộ phí, cả hai người thay quần áo, mỗi người đeo một thanh kiếm; cưỡi một con ngựa, đi về quê Tào Tháo.
Ði được ba hôm đến Thành Cao, trời đã xâm xẩm tối. Tháo cầm roi ngựa, trỏ vào một đám cây cối um tùm bảo Cung rằng:
– – trong này có Lã Bá Sa là bạn kết nghĩa với cha tôi. Tôi muốn vào hỏi thăm tin nhà, rồi ngủ đấy một đêm; nên không?
Cung nói:
– Thế thì hay lắm!
Hai người, đến cửa trại xuống ngựa vào chào Lã Bá Sa, Sa hỏi Tháo rằng:
– Ta nghe triều đình tầm nã anh gấp lắm. Cha anh phải lánh sang ở Trần Lưu rồi. Sao anh đến được đây?
Tháo bèn đem chuyện đầu đuôi kể với Lã Bá Sa, rồi lại trỏ vào Trần Cung nói:
– Nếu không gặp được quan huyện đây, thì bây giờ đã thịt nát xương tan rồi.
Lã Bá Sa vái Trần Cung rồi nói:
– Cháu nó không gặp được ngài, thì họ Tào còn gì! đêm nay xin ngài hãy thong thả nghỉ lới đây.
Nói xong, đứng dậy vào trong nhà, một chốc trở ra, bảo Trần Cung:
– Nhà tôi không có rượu ngon. để tôi sang xóm tây, mua một bình rượu ngon về uống.
Nói rồi lật đật cưỡi lừa ra đi.
Tháo với Cung ngồi ở nhà, chợt nghe thấy sau nhà có tiếng mài dao. Tháo bảo Trần Cung rằng:
– Lã Bá Sa đối với tôi không thân thiết gì lắm. Chuyện nầy đáng nghi đấy!
Hai người sẽ rón rén bước vào sau nhà tranh, chỉ nghe thấy có tiếng người nói:
– Trói lại mà gϊếŧ!
Tháo bảo Trần Cung:
– Ðúng rồi! Nếu ta không hạ thủ trước, thì sẽ bị bắt mất!
Tháo và Cung hai người cùng rút kiếm đi thẳng vào, gặp người nào trong nhà gϊếŧ người ấy; gϊếŧ một lúc tám người. Khi vào đến bếp, chỉ thấy một con lợn trói bốn vó, sắp đem chọc tiết.
Cung giật mình nói:
– Mạnh Ðức ơi! Ta đa nghi quá, gϊếŧ nhầm phải người tử tế rồi.
Hai người vội vàng trở ra lên ngựa đi. đi được độ hai mươi dặm gặp Lã Bá Sa cưỡi lừa về, trước yên treo hai bình rượu, tay xách một nắm rau quả. Lã Bá Sa hỏi hai người rằng:
– Hiền đệ với sứ quân sao lại đi?
Tháo nói:
– Tôi là người có tội, không dám ở lâu.
Lã Bá Sa nói:
– Ta đã dặn người nhà làm thịt con lợn rồi. Sứ quân với hiền đệ ngại gì một đêm, xin quay ngựa lại cho!
Tháo cứ tế ngựa đi. đi được vài bước, rút kiếm ra, quay ngựa trở lại, gọi Lã Bá Sa hỏi:
– Ai đi đằng sau ông đấy?
Sa quay đầu lại xem. Tháo chém ngay, Sa ngã xuống chết.
Cung cả sợ hỏi Tháo:
– Lúc nãy lầm đã đành, bây giờ sao lại còn đang tay như thế?
Tháo nói:
– Bá Sa về nhà, thấy nhiều người chết, tất nhiên không để im, nếu đem người đi đuổi thì ta bị vạ ngay.
Cung nói:
– Biết rằng mình lầm rồi, lại còn cố Ý gϊếŧ người nữa thực là đại bất nghĩa!
Tháo nói:
– Thà ta phụ người, không để người phụ ta!
Cung im lặng, không nói gì nữa.
Ðêm trăng sáng ròi rọi, hai người cứ phóng ngựa đi. đi được vài dặm, hai người vào nhà hàng ngủ. Sau khi cho ngựa ăn no, Tháo đi ngủ trước.
Cung suy nghĩ:
– Ta những tưởng Tào Tháo là người tốt, cho nên bỏ quan đi theo hắn. Ai ngờ hắn là hạng người tàn nhẫn. Nếu để hắn sống ở đời, tất có ngày hắn gây ra vạ lớn.
Nghĩ vậy bèn rút kiếm toan gϊếŧ Tào Tháo…
Ấy thực rõ là:
Mang tâm hiểm độc người đâu thế,
Trác, Tháo hai tên cũng một phường!
Chưa biết Tào Tháo sống chết thế nào, xem đến hồi sau sẽ tỏ.