Xà lim này ấm áp hơn mọi xà lim đích thực.
Trong này tối tăm, đúng vậy. Ngọn lửa lập lòe màu cam từ cây đuốc cắm trong chân đèn treo trên Tường Thành bên ngoài trùm lên các chấn song sắt cũ kĩ, nhưng nửa sau của xà lim vẫn bị bao phủ bởi bóng tối. Xà lim ẩm ướt, cũng là điều hiển nhiên ở hòn đảo như trên đảo Dragonstone này, bởi biển cả ngay gần kề. Xà lim có cả chuột, như mọi căn ngục khác, và một số thứ khác nữa.
Nhưng Davos không thể phàn nàn về cái lạnh. Những lối đi bằng đá nhẵn nhụi bên dưới tòa tháp vĩ đại của Dragonstone luôn ấm áp, và Davos vẫn thường nghe đồn rằng càng xuống sâu bên dưới, các Tường Thành đá ấy càng nóng hơn. Ông đang ở tít sâu bên dưới toà lâu đài, ông đoán chừng là vậy, và bức tường trong xà lim của ông quả là âm ấm khi ông ấn lòng bàn tay vào đó. Có lẽ những chuyện kể xa xưa là có thật, và Dragonstone được xây bằng những tảng đá từ địa ngục.
Khi bọn họ đưa ông xuống đây, ông còn yếu lắm. Cơn ho mà ông mắc phải từ hôm diễn ra trận chiến trở nên nặng hơn, và ông còn bị sốt nữa. Môi ông phồng rộp, rớm máu, và hơi ấm của xà lim không thể ngăn ông khỏi cơn run bần bật. Ta không trụ được lâu đâu, ông nhớ đã nghĩ như vậy. Ta sắp chết rồi, sớm thôi, ngay trong bóng tối của xà lim này.
Nhưng Davos sớm nhận thấy ông đã sai lầm về điều đó, vì những gì ông nhận được đến nay. Ông lờ mờ nhớ đến những bàn tay nhẹ nhàng và giọng nói kiên nhẫn, và học sĩ Pylos trẻ tuổi cúi xuống nhìn ông. Ông được cho uống nước xuýt tỏi nóng, và nhựa anh túc để giảm đau và khỏi run lẩy bẩy. Nước anh túc giúp ông ngủ và trong lúc ông ngủ, họ cho đỉa hút những vết máu trên người ông. Hoặc ông phỏng đoán vậy, nhờ vào các dấu vết của đỉa trên hai cánh tay ông khi ông tỉnh giấc. Chẳng bao lâu sau cơn ho của ông ngưng hẳn, các vết phồng rộp rớm máu cũng biến mất, và món nước xuýt ông được uống còn có các miếng cá ngần, cà rốt và hành nữa. Rồi đến một ngày, ông nhận thấy mình khoẻ hơn cái ngày con thuyền Betha Đen vỡ vụn bên dưới chân ông và hất tung ông xuống con sông ấy.
Có hai cai ngục canh chừng ông. Một người to bè, béo lùn, vai u, tay bự. Cậu ta mặc áo da có điểm các khuy sắt, và mỗi ngày một lần, cậu ta mang cho Davos một bát cháo yến mạch. Có lúc cậu ta còn cho thêm mật ong hoặc đổ thêm chút sữa vào cháo. Viên cai ngục kia già hơn, lưng hơi gù và da vàng bủng, tóc bẩn nhờn bóng lên, da dẻ xù xì. Ông ta mặc áo chẽn bằng nhung trắng, ngực áo có một vòng tròn các ngôi sao được thêu chỉ vàng. Cái áo đó không hợp với ông ta chút nào, vì nó quá ngắn, quá lùng nhùng, bẩn thỉu và rách rưới. Ông ta thường mang cho Davos thịt và khoai tây nghiền, hoặc cá hầm, và có một lần ông ta mang cả một khoanh cá mυ"ŧ đá nữa. Khoanh cá béo ngậy đến mức ông không thể nào đặt nó xuống được, nhưng dù sao, đó vẫn là ưu đãi hiếm hoi cho một tù nhân trong căn ngục.
Trong căn ngục không thấy mặt trời mặt trăng; không cánh cửa sổ nào được khoét giữa những bức tường đá dày cộp. Cách duy nhất để phân biệt ngày đêm là nhờ vào hai viên cai ngục kia. Không ai nói gì với ông, mặc dù ông biết bọn họ không bị điếc; đôi lúc ông nghe thấy họ trao đổi với nhau những từ ngữ cục cằn khi đổi ca. Thậm chí bọn họ còn không xưng tên với ông, vì vậy ông tự đặt tên cho bọn họ. Viên cai ngục to béo thấp lùn là Cháo Đặc, còn viên cai ngục vàng bủng hơi gù lưng kia là Cá Mυ"ŧ Đá, vì ông ta mang khoanh cá mυ"ŧ đá cho ông. Ông tính mỗi ngày trôi qua bằng các bữa ăn mà họ mang đến, và bằng các ngọn đuốc được đổi bên ngoài xà lim.
Trong bóng tối, con người trở nên cô độc và khao khát tiếng người. Davos thường nói chuyện với hai viên cai ngục mỗi khi họ đến xà lim, bất kể họ mang thức ăn hay khi đổi bát cháo cho ông. Ông biết bọn họ sẽ giả điếc trước những lời cầu khẩn xin tự do hay xin khoan hồng; vì vậy, ông chỉ hỏi họ câu hỏi với mong muốn đến một ngày nào đó, sẽ có một người trả lời. “Có tin gì về cuộc chiến không?” ông hỏi, và “Sức khỏe của nhà vua có bình an không?” Ông cũng hỏi về con trai Devan, về Công chúa Shireen, và cả Salladhor Saan. “Thời tiết hôm nay thế nào?” ông hỏi, và “Bão thu đến chưa? Thuyền có còn giương buồm trên biển hẹp không?”
Ông hỏi gì cũng vô ích; bọn họ chẳng bao giờ trả lời, mặc dù đôi lúc Cháo Đặc cũng nhìn ông, và trong một thoáng, Davos nghĩ cậu ta đã định nói gì đó. Với Cá Mυ"ŧ Đá thì không được nhiều nhặn đến vậy. Với ông ta mình đâu còn là con người, Davos thầm nghĩ, mình chỉ là một tảng đá biết ăn, đại tiện rồi nói lảm nhảm. Sau một hồi, ông quyết định ưa viên cai ngục Cháo Đặc hơn. Ít nhất thì Cháo Đặc cũng có vẻ biết rằng ông đang còn sống, và ở cậu ta toát lên vẻ tử tế. Davos ngờ rằng cậu ta còn cho chuột ăn; đó là lý do khiến ở đây nhiều chuột đến thế. Có lần, ông còn nghĩ mình đã nghe thấy viên cai ngục này nói chuyện với chuột, như thể đàn chuột là một đám trẻ con, nhưng có thể ông chỉ ngủ mơ nghe thấy vậy thôi.
Bọn họ không định để mình chết, ông nhận ra như vậy. Bọn họ đang giữ cho mình sống, vì mục đích nào đó. Ông không thích nghĩ xem mục đích đó là gì. Lãnh chúa Sunglass đã bị giam cầm một thời gian trong căn ngục bên dưới Dragonstone, các con trai của Ser Hubard Rambton cũng vậy; tất cả bọn họ đều phải bước lên giàn hỏa thiêu. Lẽ ra mình nên chết quách dưới biển cho xong, Davos nghĩ vậy khi ngồi nhìn đăm đăm vào ngọn đuốc cách xa tít các chấn song. Hoặc cứ mặc kệ con thuyền đi qua, rồi chết khô trên tảng đá kia. Mình sẽ sớm làm mồi cho đàn cua, hơn là làm mồi cho lửa.
Một buổi tối, khi đang ăn bữa tối, Davos cảm thấy một cơn phấn khích lạ lùng bao trùm. Ông ngẩng lên nhìn qua chấn song, và cô ta đứng đó, trong ánh đỏ lung linh cùng với viên hồng ngọc to tổ chảng đeo quanh cổ, đôi mắt đỏ của cô ta lóe sáng như ngọn đuốc. “Melisandre,” ông nói, cùng với sự bình tĩnh mà chính ông cũng không cảm nhận được.
“Hiệp Sĩ Củ Hành,” cô ta đáp lời, cũng điềm đạm y như vậy, như thể hai người bọn họ vừa gặp nhau trên cầu thang, hoặc trong vườn, và lịch thiệp chào nhau. “Ngài khỏe không?”
“Khỏe hơn trước.”
“Ngài có thiếu thốn gì không?”
“Thiếu nhà vua của ta. Các con trai ta. Ta thiếu họ.” Ông đẩy bát ăn sang bên và đứng lên. “Ngươi đến đây để hỏa thiêu ta sao?”
Đôi mắt đỏ đến lạ lùng của cô ta chăm chăm nhìn ông qua các chấn song. “Đây quả là nơi tồi tệ, phải không? Một nơi tối tăm, bẩn thỉu. Mặt trời ấm áp, và ánh trăng đều không tỏa sáng nơi đây.” Cô ta đưa tay cầm ngọn đuốc trên tường. “Đây là thứ duy nhất chặn giữa ngươi và bóng tối, Hiệp Sĩ Củ Hành. Chính là ngọn lửa nhỏ bé này, chính là món quà của R’hllor. Ta tắt lửa đi nhé?”
“Không.” Ông bước về phía chấn song. “Làm ơn.” Ông nghĩ ông không thể chịu đựng được cảnh bị bỏ lại một mình trong bóng tối mà không có ai bầu bạn ngoài lũ chuột.
Đôi môi của ả nữ tu đỏ cong cớn, hé nở một nụ cười. “Vậy là ngài đã biết yêu lửa, có vẻ là vậy.”
“Ta cần ngọn đuốc.” Hai bàn tay ông mở ra và nắm lại. Ta sẽ không cầu xin cô ta. Không đâu.
“Ser Davos, ta giống như ngọn đuốc này thôi. Cả ta và ngọn đuốc đều là công cụ của R’hllor. Chúng ta sinh ra chỉ với một mục đích duy nhất – để xua tan bóng tối. Ngài có tin như vậy không?”
“Không.” Có lẽ ông nên nói dối, và nói cho cô ta nghe điều cô ta muốn, nhưng Davos đã quá quen với việc nói thật. “Ngươi là mẹ của bóng tối. Ta đã nhìn thấy cảnh đó bên dưới Storm’s End, khi ngươi trở dạ ngay trước mắt ta.”
“Chẳng lẽ Ser Củ Hành dũng cảm lại sợ một cái bóng thoáng qua đến vậy sao? Thế thì ngài nên can đảm hơn. Bóng tối chỉ sống khi được sinh ra bởi ánh sáng, và ngọn lửa của nhà vua thấp đến nỗi ta không dám lấy thêm để sinh đứa con trai nào khác. Việc đó có thể hại chết nhà vua.” Melisandre tiến đến gần hơn. “Dù vậy, với một người đàn ông khác… một người với những ngọn lửa vẫn cháy hừng hực… nếu ngài thực sự muốn phục vụ sự nghiệp của đấng quân vương của ngài, một tối nào đó hãy đến phòng ngủ của ta. Ta sẽ cho ngài niềm hân hoan mà ngài chưa bao giờ biết, và với ngọn lửa sống của ngài, ta có thể sinh ra…”
“… một nỗi kinh hoàng.” Davos lùi lại, tránh xa mụ ta. “Ta không cần gì của ngươi cả. Và cũng không cần vị thần của ngươi. Cầu xin Thất Diện Thần bảo vệ ta.”
Melisandre thở dài. “Họ đã không bảo vệ Guncer Sunglass. Mỗi ngày ông ta cầu nguyện đến ba lần, và khiên của ông ta cũng có hình của một ngôi sao bảy cánh, nhưng khi R’hllor giơ tay ra, những lời cầu nguyện của ông ta biến thành tiếng kêu thét thảm thiết, và ông ta cháy rụi. Tại sao cứ phải bấu víu vào những vị thần giả dối như vậy?”
“Cả đời ta tôn thờ các vị ấy.”
“Cả đời ngài sao, Davos Seaworth? Phải nói nó đã là ngày hôm qua thì đúng hơn.” Mụ ta buồn bã lắc đầu. “Ngài chưa bao giờ sợ hãi khi nói sự thật với nhà vua, vậy tại sao ngài phải tự lừa dối mình? Ngài hiệp sĩ, hãy mở to mắt ra đi.”
“Ngươi nhìn thấy gì trong mắt ta?”
“Ta nhìn thấy phương cách mà thế giới này được hình thành. Quanh ngài có biết bao sự thật, rất dễ nhìn thấy. Đêm luôn tối tăm và đầy rẫy nỗi kinh khϊếp, ngày luôn sáng rạng, đẹp đẽ và tràn trề hy vọng. Một cái màu đen, một cái màu trắng. Trên đời có băng, và có lửa. Yêu thương, và ghét bỏ. Cay đắng và ngọt ngào. Đàn ông và đàn bà. Nỗi đau và niềm hân hoan. Đông và hạ. Ác quỷ và hiền nhân.” Mụ ta tiến thêm một bước về phía ông. “Cái chết và sự sống. Đâu đâu cũng là sự đối nghịch. Đâu đâu cũng là cuộc chiến.”
“Cuộc chiến ư?” Davos hỏi.
“Cuộc chiến,” cô ta khẳng định. “Hiệp Sĩ Củ Hành, luôn có hai thứ đối ngược. Không phải bảy, không phải một, không phải một trăm hay một ngàn. Hai thôi! Lẽ nào ngài nghĩ ta đi nửa vòng thế giới này chỉ để đưa một ông vua rỗng tuếch ngồi trên chiếc ngai vàng rỗng tuếch sao? Chiến tranh nổ ra từ khi thế giới này khai sinh, và trước khi thế giới này sập xuống, tất cả mọi người đều phải chọn xem mình đứng về phía nào. Một bên là R’hllor, là Thần Ánh Sáng, là Trái Tim Lửa, là Thần Lửa và Bóng Tối. Một bên là Đại Ngoại Nhân mà tên của ông ta chưa ai biết đến, là Hồn Băng, là Thần Bóng Đêm và Nỗi Kinh Khϊếp. Lựa chọn của chúng ta không phải là Baratheon hay Lannister, Greyjoy hay Stark. Lựa chọn của chúng ta là sự sống, hoặc cái chết. Bóng tối, hoặc ánh sáng.” Đôi bàn tay trắng mảnh khảnh của cô ta tóm lấy chấn song xà lim. Viên hồng ngọc trên cổ cô ta dường như cũng rộn ràng trong ánh sáng chói của nó.
“Lòng ta,” Davos chậm rãi nói, “đầy nỗi hoài nghi.”
Melisandre thở dài. “Ahhh, Davos. Cuối cùng thì vị hiệp sĩ này cũng thành thật, ngay cả khi vị ấy bị ngồi trong bóng tối. Thật hay vì ngài không nói dối ta. Lẽ ra ta nên biết. Kẻ tôi tớ của Ngoại Nhân luôn che giấu trái tim đen tối của chúng trong ánh sáng loè loẹt, vì vậy R’hllor ban cho các thầy tu của ngài ấy quyền năng nhìn được xuyên thấu sự dối trá.” Mụ ta nhẹ nhàng bước xa khỏi xà lim. “Tại sao ngươi muốn gϊếŧ ta?”
“Ta sẽ nói lý do với ngươi,” Davos nói, “nếu ngươi cho ta biết kẻ nào đã phản bội ta.”
Chỉ có thể là Salladhor Sam thôi, nhưng đến tận giờ phút này, ông vẫn mong không phải là vậy.
Người đàn bà mặc đồ đỏ cười lớn. “Hiệp Sĩ Củ Hành, không ai phản bội ngài hết. Ta nhìn thấy mưu đồ của ngài trong ngọn lửa của ta.”
Ngọn lửa. “Nếu ngươi nhìn thấy tương lai trong những ngọn lửa ấy, vậy tại sao đội quân của ta lại bị thiêu rụi trên Xoáy Nước Đen? Ngươi đẩy các con trai ta vào vòng lửa… các con trai của ta, thuyền của ta, quân của ta, tất cả đều cháy rụi…”
Melisandre lắc đầu. “Hiệp Sĩ Củ Hành, ngài hiểu lầm ta rồi. Những ngọn lửa ấy không phải là lửa của ta. Nếu lúc đó ta đi với ngươi, chắc chắn trận chiến của ngươi đã có một kết thúc khác. Nhưng xung quanh nhà vua có biết bao kẻ không đáng tin, và sự kiêu hãnh của ngài lớn hơn cả niềm tin của ngài. Hình phạt của ngài quả là nặng nề, nhưng ngài đã rút ra được một bài học từ chính sai lầm của mình.”
Vậy các con trai của ta không đáng gì hơn một bài học cho một ông vua sao? Davos cảm thấy môi ông mím chặt lại.
“Bây giờ đang là đêm tối ở Bảy Phụ Quốc,” ả nữ tu đỏ nói tiếp, “nhưng mặt trời sẽ sớm lên thôi. Davos Seaworth, cuộc chiến vẫn tiếp tục, và sẽ có kẻ sớm học được rằng ngay cả một cục than hồng trong đám tro tàn vẫn có thể bốc cháy thành một ngọn lửa lớn. Học sĩ già nhìn Stannis và chỉ nhìn thấy một người đàn ông. Còn ngài nhìn thấy một ông vua. Cả hai người đều sai lầm. Ngài ấy là lựa chọn của Thần Ánh Sáng, là chiến binh của lửa. Ta đã thấy ngài ấy dẫn đầu cuộc chiến chống lại bóng tối, ta đã nhìn thấy như vậy trong những ngọn lửa của ta. Những ngọn lửa ấy không bao giờ nói dối, nếu không ngươi đã không có mặt ở đây. Điều đó còn được viết trong lời tiên tri nữa. Khi ngôi sao đỏ chảy máu và bóng tối tụ lại, Azor Ahai sẽ được tái sinh giữa khói lửa và muối để đánh thức rồng. Ngôi sao chảy máu đã đến rồi đi, và Dragonstone chính là nơi của khói lửa và muối. Stannis Baratheon là Azor Ahai tái sinh!” Đôi mắt đỏ của cô ta sáng rực như hai hòn lửa song sinh, và dường như chúng đang nhìn xoáy vào sâu thẳm linh hồn của ông. “Ngươi không tin ta. Ngay cả lúc này ngươi cũng hoài nghi về chân lý của R’hllor… nhưng ngươi đã phụng sự ngài, và sẽ tiếp tục phụng sự ngài. Ta sẽ để ngươi lại đây để suy nghĩ thêm về những điều ta vừa nói. Và bởi R’hllor là nguồn cơn của mọi sự, nên ta sẽ để cả ngọn đuốc lại đây.”
Cô ta biến mất cùng với một nụ cười và vòng xoáy của chiếc váy đỏ. Chỉ còn mùi nước hoa của cô ta vảng vất. Mùi nước hoa, và cả ngọn đuốc. Davos ngồi bó gối xuống sàn xà lim. Ánh đuốc đổ trùm lên người ông. Ngay khi bước chân Melinsandre xa dần, ông chỉ nghe thấy tiếng chuột sục sạo. Lửa và băng, ông thầm nghĩ. Đen và trắng. Bóng tối và Ánh sáng. Davos không thể phủ nhận quyền năng vị thần của cô ta. Ông đã nhìn thấy cái bóng đó bò ra khỏi tử ©υиɠ của Melisandre, và mụ ta biết những điều mà lẽ ra mụ ta không thể nào biết được. Mụ ta nhìn thấy ý đồ của mình trong những ngọn lửa ấy. Thật tốt khi biết Salla không bán đứng ông, nhưng ý nghĩ về việc ả đàn bà ấy nhìn thấu bí mật của ông qua những ngọn lửa khiến lòng dạ ông bất an đến mức không nói lên lời. Và cô ta có ý gì khi nói rằng mình đã phụng sự vị thần của cô ta và sẽ tiếp tục phụng sự vị thần ấy? Ông không thích điều đó chút nào.
Ông liếc mắt nhìn đăm đăm lên ngọn đuốc. Một hồi lâu, không chớp mắt, ngắm ngọn lửa nhảy múa lung linh. Ông cố nhìn ra cái gì đó xuyên thấu ngọn lửa, cố nhìn qua màn lửa và xem sau màn lửa ấy là cái gì… nhưng ở đó không có gì, chỉ có lửa, và sau một hồi, mắt ông ướt nhòe.
Mệt mỏi, Davos co người nằm trên đống rơm và ngủ.
Ba ngày sau – vì Cháo Đặc đến ba lần và Cá Mυ"ŧ Đá đến hai lần – Davos nghe thấy tiếng nói bên ngoài xà lim. Ông ngồi bật dậy, lưng dựa vào tường và lắng nghe âm thanh của cuộc vật lộn. Đây là sự việc mới mẻ, là một sự thay đổi trong thế giới tĩnh lặng của ông. Tiếng ồn phát ra từ phía bên trái, nơi các bậc thang dẫn lối lên với ánh sáng ban ngày. Ông nghe thấy tiếng nói của một người đàn ông đang biện hộ và la hét.
“… điên rồ!” ông ta nói khi xuất hiện, đang bị kéo lê giữa hai lính gác có in hình trái tim rực lửa trên ngực áo. Cháo Đặc đi trước bọn họ, chùm chìa khóa kêu rủng rẻng, và Ser Axell Florent đi phía sau. “Axell,” kẻ tù nhân tuyệt vọng nói, “vì tình yêu thương ngươi dành cho ta, hãy thả ta ra! Ngươi không thể làm vậy được, ta không phải là kẻ phản bội!” Ông ta già, cao và mảnh khảnh, tóc bạc, râu nhọn, và nét mặt dài thanh tú nhăn nhúm vì nỗi sợ hãi. “Selyse đâu, thái hậu đâu? Ta yêu cầu được gặp người. Ngoại Nhân gϊếŧ hết các ngươi đi! Thả ta ra!”
Hai viên lính gác không mảy may chú ý đến lời kêu gào của ông ta. “Đây được không?” Cháo Đặc hỏi khi đứng trước xà lim. Davos đứng lên. Trong một giây, ông cân nhắc đến việc xô vào bọn họ khi cửa mở, nhưng như thế thì thật điên rồ. Bọn họ có quá nhiều người, lính gác có cả gươm, còn Cháo Đặc thì to lớn như một con bò mộng.
Ser Axell gật đầu cụt lủn với viên cai ngục. “Cứ để hai tên phản bội này bầu bạn với nhau.”
“Ta không phải là tên phản bội!” gã tù nhân rít lên khi Cháo Đặc mở cửa xà lim. Mặc dù ông ta ăn mặc đơn giản trong chiếc áo chẽn bằng len xám và quần ống túm màu đen, nhưng giọng nói cho thấy ông ta thuộc dòng dõi cao quý. Dòng dõi quý tộc không giúp ích gì cho ông ta ở chốn lao tù này, Davos thầm nghĩ bụng.
Cháo Đặc mở rộng cửa, Ser Axell gật đầu, và hai tên lính gác đẩy kẻ tù nhân chúi đầu vào trong. Người đàn ông đó loạng quạng và lẽ ra đã ngã nhào, nhưng Davos đỡ được ông ta. Ông ta vùng ra ngay lập tức và lảo đảo bước về phía cửa, và rồi cánh cửa đóng sầm trước nét mặt tái nhợt của ông ta. “Không,” ông ta hét lên, “Khôngggg.” Bao nhiêu sức lực bất chợt rời khỏi đôi chân ông ta, và ông ta chầm chậm trượt xuống sàn, hai tay bấu chặt lấy các chấn song sắt. Ser Axcell, Cháo Đặc, và lính canh đều đã rời đi. “Các người không thể làm vậy,” gã tù nhân hét lên vào những cái lưng đang đi xa dần. “Ta là quân sư của nhà vua đấy!”
Đúng lúc đó Davos nhận ra ông ta. “Ngài là Alester Florent.” Ông ta quay đầu lại. “Ai…?”
“Ser Davos Seaworth.”
Lãnh chúa Alester chớp mắt. “Seaworth… Hiệp Sĩ Củ Hành. Ngươi âm mưu ám sát Melisandre.”
Davos không phủ nhận điều đó. “Tại trận đánh ở Storm’s End, ngài mặc áo giáp màu vàng đỏ, giáp che ngực có khắc hoa lapis.” Ông đưa tay ra kéo người đàn ông kia đứng lên.
Lãnh chúa Alester phủi rơm bẩn khỏi quần áo. “Ta… ta xin lỗi vì diện mạo của ta. Rương hòm của ta mất hết khi quân của Lannisters tràn vào doanh trại. Ta chạy thoát khi trên người chỉ còn áo giáp và nhẫn đeo tay.”
Ông ta vẫn đeo những chiếc nhẫn đó, Davos nhận thấy như vậy, và bản thân Davos còn không có đủ các ngón tay của mình.
“Chắc chắn một tên nấu bếp hoặc một tên giữ ngựa nào đó đang mặc chiếc áo chẽn bằng nhung và chiếc áo khoác nạm ngọc của ta rồi vênh váo đi khắp Vương Đô cho mà xem,” Lãnh chúa Alester nói tiếp, vẻ lãng quên. “Nhưng ai cũng biết chiến tranh ác liệt lắm. Ngươi cũng phải chịu đựng tổn thất riêng.”
“Thuyền của tôi,” Davos nói. “Toàn bộ quân lính. Bốn con trai.”
“Cầu xin… cầu xin Thần Ánh Sáng dẫn lối cho họ băng qua bóng tối để đến với một thế giới tốt đẹp hơn,” ông ta nói.
Cầu xin Đức Cha phân xử công bằng, cầu xin Đức Mẹ khoan dung, Davos thầm nghĩ, nhưng ông chỉ một mình cầu nguyện như vậy. Hiện giờ Thất Diện Thần không còn chỗ ở Dragonstone nữa.
“Con trai ta đang an toàn ở Brightwater,” vị lãnh chúa nói tiếp, “nhưng ta mất một đứa cháu trai ở Thịnh Nộ. Ser Imry, con trai của cậu em Ryam của ta.”
Chính Ser Imry Florent đã mù quáng dẫn bọn họ lên Xoáy Nước Đen khi tất cả tay chèo đều được kéo ra mà không để tâm đến những tảng đá nhỏ ở cửa sông. Davos không quên ông ta. “Con trai Maric của tôi là người chèo thuyền cho cháu trai của ngài.” Ông nhớ đến hình ảnh cuối cùng của tàu Thịnh Nộ, khi nó bị chìm trong biển lửa. “Còn tin gì về những người sống sót không?”
“Tàu Thịnh Nộ cháy và chìm nghỉm,” người tù nhân mới nói. “Con trai ngươi và cháu ta đều chết, cùng với vô số những người khác. Ser, ngày hôm đó cuộc chiến cũng thất bại.”
Người đàn ông này đã bị đánh bại. Davos vẫn nhớ câu chuyện của Melisandre về những viên than hồng trong tàn tro có thể cháy bùng thành một ngọn lửa lớn. Không nghi ngờ gì khi ông ta phải vào đến chốn lao tù. “Thưa ngài, nhà vua sẽ không bao giờ đầu hàng.”
“Điên rồ, đó là sự điên rồ.” Lãnh chúa Alester lại ngồi xuống sàn, như thể nỗ lực đứng lên một lát cũng là quá sức với ông ta. “Stannis Baratheon sẽ không bao giờ ngồi lên Ngai Sắt đâu. Chẳng lẽ nói sự thật cũng là phản quốc sao? Một sự thật cay đắng, nhưng là sự thật đích thực. Hạm đội tàu thuyền của ngài ấy đã tiêu tan hết, trừ tàu Lyseni, và Salladhor Sam sẽ bỏ chạy ngay khi nhìn thấy buồm của Nhà Lannister. Hầu hết các lãnh chúa ủng hộ Stannis đều đã bỏ chạy về phía Joffrey hoặc đã chết…”
“Cả các lãnh chúa của vùng biển hẹp sao? Các lãnh chúa đã thề sẽ đi theo Dragonstone sao?”
Lãnh chúa Alester yếu ớt hẩy tay. “Lãnh chúa Celtigar bị bắt và đã quỳ gối quy phục. Monford Velaryon chết cùng với con thuyền của ông ta, mụ đàn bà mặc đồ đỏ hoả thiêu Sunglass, và Lãnh chúa Bar Emmon mới 15 tuổi, béo ục ịch và yếu ớt. Đó là các lãnh chúa của biển hẹp. Stannis chỉ còn mỗi Nhà Florent phụng sự, đối chọi lại với sức mạnh của Highgarden, Sunspear, và cả Casterly Rock, và đến giờ là hầu hết các Lãnh chúa Bão. Hy vọng duy nhất còn lại là cố gắng và thu hồi cái gì đó bằng hòa bình. Đó là những gì ta định làm. Các thánh thần ơi, tại sao bọn họ lại có thể gọi đó là tội phản quốc được chứ?”
Davos đứng cau mày. “Thưa ngài, ngài đã làm gì vậy?”
“Không phải phản quốc. Không bao giờ là phản quốc. Ta yêu mến nhà vua như tất cả mọi người kính yêu nhà vua. Cháu gái ta là thái hậu, và ta vẫn trung thành với ngài khi những gã đàn ông khôn ngoan hơn trốn chạy. Ta là quân sư của nhà vua, làm sao ta có thể là quân phản bội cho được? Ta chỉ muốn giữ mạng sống của chúng ta, và cả… cả danh dự nữa.” Ông ta liếʍ môi. “Ta viết một bức thư. Salladhor Saan thề rằng ông ta có một người có thể đưa thư đến Vương Đô cho Lãnh chúa Tywin. Ông ta là một người… một người của lý trí, và điều kiện của ta… các điều kiện công bằng… hơn cả công bằng.”
“Thưa ngài, các điều kiện đó là gì?”
“Ở đây bẩn quá,” Lãnh chúa Alester đột nhiên nói. “Và cái mùi đó… là mùi gì vậy?”
“Mùi xô đựng cháo,” Davos nói và ra hiệu về phía cái xô. “Ở đây chúng ta không có sự riêng tư đâu. Điều kiện gì vậy?”
Vị lãnh chúa kia nhìn chiếc xô trong sự hoảng hốt. “Lãnh chúa Stannis từ bỏ quyền sở hữu Ngai Sắt và rút lại mọi lời ngài ấy nói về thằng con hoang Joffrey, với điều kiện ngài ấy được công nhận trở lại trong sự hòa bình của nhà vua và được thừa nhận là lãnh chúa của Dragonstone và Storm’s End. Ta đã thề làm y như vậy, để đổi lại Brightwater và toàn bộ đất đai của bọn ta. Ta cứ nghĩ… Lãnh chúa Tywin sẽ nhìn thấy sự khôn ngoan trong đề xuất của ta. Ông ta vẫn còn phải đối phó với Nhà Stark và cả người Đảo Iron nữa. Ta đề nghị được đóng dấu cho cuộc thương lượng bằng việc gả Shireen cho thằng em Tommen của Joffrey.” Ông ta lắc đầu. “Các điều khoản… tốt như chúng ta hằng mong. Ngay cả ông cũng nhìn thấy điều đó, đúng không?”
“Đúng,” Davos nói, “tôi cũng thấy.” Trừ khi Stannis sinh được con trai, nếu không cuộc hôn nhân đó đồng nghĩa với việc đến một ngày nào đó, Dragonstone và Storm’s End sẽ thuộc về Tommen, và điều đó chắc chắn sẽ khiến Lãnh chúa Tywin hài lòng. Trong khi đó, Nhà Lannister sẽ giữ Shireen làm con tin để chắc chắn Stannis sẽ không dấy binh nổi loạn. “Vậy Nhà vua nói sao khi ngài đề xuất điều đó với người?”
“Ngài ấy lúc nào cũng ở bên mụ đàn bà mặc đồ đỏ ấy, và… ngài ấy không ở trong tình trạng minh mẫn. Chuyện về rồng đá chỉ là chuyện điên rồ, tôi nói vậy đấy, hoàn toàn điên rồ. Chẳng lẽ chúng ta chưa học được điều gì từ Aerion Brightfire, từ chín vị pháp sư và các nhà giả kim sao? Chúng ta cũng không học được gì từ Summerhall sao? Chẳng có gì hay ho xuất phát từ những giấc mơ rồng ấy cả, ta cũng nói vậy với Axell đấy. Cách của ta hay hơn. Chắc chắn hơn. Và Stannis đưa cho ta con dấu của người, người cho phép ta được trị vì. Quân sư nói lên tiếng nói của nhà vua.”
“Không phải trong trường hợp này.” Davos không phải cận thần, và thậm chí ông còn không hề cố nói giảm nói tránh gì. “Stannis không muốn đầu hàng, nếu ngài ấy biết quyền sở hữu của ngài ấy là vậy. Và ngài ấy cũng không thể rút lại những lời ngài ấy đã nói về Joffrey, khi ngài ấy tin những lời ấy là thật. Về đám cưới kia, Tommen sinh ra cũng do lσạи ɭυâи giống Joffrey mà thôi, và nhà vua sẽ sớm phải nhìn Shireen chết hơn là phải cưới một kẻ như thế.”
Một đường gân nổi lên trên trán Florent. “Ngài ấy không còn lựa chọn nào khác.”
“Thưa lãnh chúa, ngài đã nhầm. Ngài ấy có thể chọn được chết như một đấng minh quân.”
“Và chúng ta cũng chết theo luôn ư? Hiệp Sĩ Củ Hành, có phải đó là điều ngươi mong muốn không?”
“Không. Nhưng tôi là người của nhà vua, và tôi sẽ không giảng hoà nếu không được ngài ấy cho phép.”
Lãnh chúa Alester nhìn ông đầy bất lực một hồi lâu, và rồi bật khóc.