Năm tháng nào đó không biết rõ.
Nụ hoa của Văn Xuân Tương mọc đã vài chục năm, vẫn chầm chậm lớn lên, nhưng chưa từng nở hoa. Văn Xuân Tương từ lúc bắt đầu là chờ mong đến cuối cùng là thất vọng rồi bình tĩnh.
Dù sao khoảng cách giữa phiến lá đầu tiên và phiến lá thứ hai của mình mọc ra cũng là hơn trăm năm, muốn nở hoa nhất định sẽ còn chậm hơn nữa.
Vội làm gì chứ, trước hết cứ ngủ một giấc đi.
Lúc trước Văn Xuân Tương vẫn không dám ngủ, sợ lúc mình ngủ sẽ có yêu thú lại ăn mất nó, nhưng mà y đã lẳng lặng ở đây mấy chục năm, chưa từng phát hiện một thứ gì có thể động đến mình. Linh khí ở nơi này rất mỏng manh, mãnh thú trên núi gần như không có khả năng mở linh trí. Dưới vách núi là vực sâu vạn trượng, càng không có mãnh thú nào dám đến đây ăn đóa hoa có vẻ vô cùng ngon lành này.
Ôm nguyện vọng tươi đẹp mình ngủ một giấc tỉnh dậy là có thể sẽ nở hoa, Văn Xuân Tương chìm vào giấc ngủ say.
Y vẫn luôn cho rằng mình có khả năng là cỏ đuôi mèo, chỉ cần có thể nở hoa là thấy mĩ mãn rồi.
Cứ ngủ như vậy, mười mấy năm đã trôi qua.
Bỗng một ngày nào đó, một nông hộ lên núi hái thuốc, bị mãnh thú đuổi theo, không cẩn thận trượt xuống vách núi.
Mạng của nông hộ vẫn chưa hết, trong lúc khẩn cấp túm được một sợi dây leo trên vách núi, may mắn sống sót.
“Hộc ~, Bồ Tát phù hộ, nếu đệ tử có thể bình an về nhà thì nhất định sẽ thành tâm cung phụng.” Nông hộ tự trấn an hồi lâu mới có thể khiến mình bình tĩnh lại.
Hắn bắt đầu bò lên trên theo hướng dây leo.
Đang bò, tầm mắt hắn chợt bị một đóa hoa trắng như tuyết hấp dẫn.
Hắn tuy rằng là nông hộ, nhưng cũng có chút ít nghiên cứu về hoa cỏ, người đời chỉ thích mỗi mẫu đơn, các loại hoa mẫu đơn đủ màu gần như tràn ngập khắp cả nước.
Cái gọi là tuyệt đại chỉ Tây tử, chúng phương duy mẫu đơn.
(Đây là câu thơ miêu tả vẻ đẹp của hoa mẫu đơn trong bài “Mẫu đơn” của Bạch Cư Dị. Nghĩa là mỹ nhân chỉ có Tây tử (Tây Thi) là bậc tuyệt sắc, còn với loài hoa thì đẹp nhất duy chỉ có mẫu đơn.)Đại quan quý nhân nếu trong nhà không có một chậu mẫu đơn xuất sắc, thì hầu như chẳng có mặt mũi gặp người khác. Tiền triều chỉ yêu thích mẫu đơn màu sắc sặc sỡ, mà đương kim hoàng đế lại thích mẫu đơn trắng. Trên làm dưới theo, có rất nhiều văn nhân mặc khách viết nên vô số bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của mẫu đơn trắng. Dù là đứa con nít bên đường, cũng có thể đọc được mấy câu.
Trong nhận thức có hạn của nông hộ, hắn không biết cây hoa mẫu đơn mình gặp được là thuộc dạng gì, hắn chỉ biết là, hết thảy mẫu đơn mà mình từng gặp đều thua kém đóa hoa trước mắt này.
Phát tài rồi!
Trong đầu nông hộ bỗng nhiên nảy ra một ý nghĩ như vậy, nếu mang cây mẫu đơn này về bán, người nhà hắn có thể sống qua ngày. Chẳng bao lâu nữa, trong thành bọn họ sẽ có hội hoa mẫu đơn, đến lúc đó, cây mẫu đơn này nhất định có thể bán được giá cao!
Nông hộ suy nghĩ trong lòng, nơm nớp lo sợ buộc dây leo quanh hông, sau đó bò từng chút một sang, dùng một cái cuốc đào thuốc nhỏ mang theo bên người đào cả gốc lẫn đất của mẫu đơn lên, bấy giờ mới cẩn thận trèo lên đi về nhà.
Văn Xuân Tương đang ngủ say, lại có cảm giác chung quanh ồn ào vô cùng.
Đến khi y tỉnh lại, phát hiện mình bị trồng trong một chậu hoa, có vô số người vây quanh mình tấm tắc khen ngợi.
“Ta nuôi mẫu đơn đã nhiều năm, tự cho là đã thấy vô số quốc sắc, không ngờ lúc sinh thời còn có thể chiêm ngưỡng một cây hoa lộng lẫy cỡ này, may mắn may mắn!”
“Chỉ có mẫu đơn chân quốc sắc, mỗi khi hoa nở rộn kinh thành. Một cây mẫu đơn trắng như vậy, cũng đủ chấn động cả quốc đô.”
(Đây là câu thơ trong bài “Thưởng mẫu đơn” của Lưu Vũ Tích)“……….”
Văn Xuân Tương ngây ngẩn hết cả người.
Tình huống gì thế này?
Mẫu đơn trắng là thứ gì?
Văn Xuân Tương vẫn luôn cho rằng mình là một cây cỏ đuôi mèo, hôm nay lại biến thành mẫu đơn trắng trong miệng mấy phàm nhân này. Mặc dù không biết có khác biệt gì, nhưng y quả thực không phải thứ đến từ Tu Chân giới. Vừa nghĩ như vậy, Văn Xuân Tương lại không khỏi thấy hơi ảo não chua xót.
Nhưng trong mắt những người nhiệt tình yêu thương mẫu đơn này, cây mẫu đơn này chẳng những có linh tính mà còn sở hữu phong tư tuyệt diệu.
Dáng vẻ bản thể của Văn Xuân Tương sau khi trải qua gột rửa bởi linh khí từ Tu Chân giới, hơn nữa còn nở hoa, đương nhiên không phải thứ mà mẫu đơn bình thường có thể so sánh được.
Thậm chí khi bị đặt lẫn trong một rừng mẫu đơn như lúc này, Văn Xuân Tương vẫn cảm nhận được khí thế “Duy ngã độc tôn”.
(“Duy ngã độc tôn” nghĩa là mình ta là đứng đầu, lấy từ câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” của Đức Phật.)Cuối cùng cây mẫu đơn kỳ dị này được mua bởi một vị cao quan, dâng lên đương kim hoàng đế vào lễ vạn thọ.
(Lễ vạn thọ là lễ mừng ngày sinh nhật của hoàng đế ở Trung Quốc.)Đương kim hoàng đế rất vui vẻ, ban cho Văn Xuân Tương danh hiệu “Thiên hạ đệ nhất hoa trung chi vương”.
(Dịch “Thiên hạ đệ nhất vua của muôn hoa” nghe chuối chuối nên để như này nhé.)Đất nước hiện giờ đang trong thời kỳ quốc lực hưng thịnh, hoàng đế anh minh vô song, thập phần long khí, miệng vàng lời ngọc vừa ban ra, Văn Xuân Tương chợt cảm giác ẩn sâu trong người mình có một chút biến hóa. Có điều sự biến hóa này chỉ vừa xuất hiện, y vẫn chưa kịp phân biệt được.
Chậu mẫu đơn trắng này được đế vương khen ngợi, thanh danh ngày càng lan truyền rộng rãi, việc tu hành của Văn Xuân Tương cũng càng thêm trôi chảy hơn.
Đáng tiếc ngày vui ngắn chẳng tầy gang, thái hậu đương triều sinh bệnh cấp tính, các thái y không thể chữa khỏi, chỉ có thể nhờ đến sự giúp đỡ của một vị cao tăng đắc đạo ở thế gian.
Vị cao tăng này tuổi tác không biết, có tu vi cao thâm, diệu thủ hồi xuân
, hoàng đế đương triều muốn mời ông làm vị trí quốc sư, song lại bị từ chối. Hiện giờ muốn mời ông ra tay, đương nhiên không thể dùng vàng bạc phàm tục để đả động. Hoàng đế là đứa con có hiếu, lại là một vị quân chủ anh minh, nghĩ tới nghĩ lui, ngài bèn lợi dụng cây mẫu đơn trắng vật mà mình luôn âu yếm, cũng chính là Văn Xuân Tương đưa đến nhà vị cao tăng nọ, xin cao tăng ra tay giúp đỡ.
Thái hậu bệnh nặng phải trị, mẫu đơn trắng cũng đã đưa đến nhà cao tăng. Hoàng đế tuy rằng đau lòng, nhưng cao tăng cũng vì thế mà lưu lại ở kinh thành, cũng coi như là đạt được niềm vui ngoài ý muốn.
Vài ngày ngắn ngủi, thay đổi bất ngờ.
Những ngày tháng có mấy trăm cung nữ thái giám hầu hạ của Văn Xuân Tương bỗng biến thành một hòa thượng phàm nhân lớn tuổi thỉnh thoảng tưới nước, lập tức tâm tình khó chịu.
Nhớ lại khi y còn ở hoàng cung, mỗi chiếc lá mỗi cánh hoa đều có cung nữ linh hoạt nhất dùng sương sớm để lau rửa, những phi tử hoàng tử đi ngang qua cũng khen ngợi y không dứt miệng, thỏa mãn trái tim bé nhỏ từng rất đáng thương của Văn Xuân Tương.
Những ngày thái bình đó còn chưa đủ, liền bị chuyển đến nhà một hòa thượng, sương sớm gì đó còn chẳng có, nước tưới là nước trà của hòa thượng kia uống còn thừa. Như thế sao có thể nhịn được?
Y đã không phải cây cỏ đuôi mèo kia nữa rồi.
Y là mẫu đơn trắng đó mẫu đơn trắng, là hoa trung chi vương đó! Sao có thể chỉ được hưởng nước trà thừa của hòa thượng? Ít nhất cũng không phải nước bị người ta uống rồi chứ!
Văn Xuân Tương rất tức giận, hậu quả chính là chưa đến mấy ngày sau, y liền chủ động thu cánh hoa vào.
Vị cao tăng nọ không hề ngạc nhiên vì sao chỉ trong một ngày mà đóa mẫu đơn trắng đang nở rộ lại biến thành nụ hoa, ông vẫn ngày ngày tụng kinh niệm Phật, thỉnh thoảng nhớ tưới cho Văn Xuân Tương chút nước.
Hành vi ngây thơ của Văn Xuân Tương như đấm vào bông, y càng tức giận hơn.
Cũng không biết như thế nào, bỗng có một ngày, khi vị cao tăng này đang tưới nước cho Văn Xuân Tương, nghĩ đóa mẫu đơn trắng này vẫn chưa có tên. Hoàng đế không đặt tên, ai dám đặt tên cho nó?
Nhưng bây giờ chậu hoa này là của mình, nên đặt tên để dễ xưng hô.
“Hết thảy những gì tươi đẹp nhất của cảnh xuân nơi thế gian đều hội tụ trên cây hoa này, chi bằng gọi là “Xuân Tương” đi.”
Đầu óc Văn Xuân Tương bỗng “Ầm” một tiếng, cảm thấy mối nhân quả giữa mình và hòa thượng khốn kiếp này đã hình thành.
Hoàng đế đương nhiên không phải không muốn đặt tên cho y, mà là Văn Xuân Tương dùng chút pháp thuật nhỏ khiến hoàng đế quên mất việc này. Trước đây khi y còn ở Tu Chân giới, Hoa Giá tỷ tỷ từng nói cho y, tên của Yêu tu bọn họ phải rất thận trọng, bởi nó liên quan đến vận mệnh tương lai của bản thân. Nếu tiếp tục sử dụng tên bản thể của mình cũng được, tỷ như cây Hoa Giá thì gọi là Hoa Giá, vậy Văn Xuân Tương nên gọi là “Bạch Mẫu Đơn” mới phải.
Song vị cao tăng này nói như vậy, tức thì Xuân Tương liền trở thành bổn danh của y.
Duyên nợ nhân quả cứ kết xuống như vậy.
Lúc trước nông hộ kia cứu y ra khỏi vách núi, rồi lại bán y đi, nhân quả đã hết. Vị cao quan kia dâng y lên đã được trọng thưởng, không nợ nần gì nữa. Về phần hoàng đế, càng không thiếu nợ gì. Chỉ có vị cao tăng này, cứu thái hậu mà chỉ nhận được y, bản thân liền dây dưa không rõ với Văn Xuân Tương, lại có duyên nợ đặt tên, dù Văn Xuân Tương có muốn lén nhảy ra khỏi chậu hoa, cũng phải cố kỵ một chút.
Mà thôi, dù sao hòa thượng này đã lớn tuổi như vậy rồi, cũng chẳng sống được mấy năm nữa, mình cứ ở lại đây chờ ông ta chết rồi đi cũng được. Như thế sẽ không thiếu nợ gì, mình cũng có thể yên tâm thanh thản tìm một ngọn núi không ra ngoài nữa.
Nghĩ vậy, Văn Xuân Tương nhanh chóng tiếp nhận tên gọi của mình, hôm sau lại lần nữa nở hoa.
Có điều vị hòa thượng cao tăng nọ bắt đầu khác thường.
Có vẻ là cảm thấy mình đã đặt tên cho cây hoa này thì phải có nghĩa vụ tương ứng.
Trước đây cách vài ngày mới tưới nước một lần, hiện tại thì tưới nước thường xuyên, còn tìm cả sách dạy nuôi trồng mẫu đơn về đọc nữa.
Tuy nhiên đa phần, vẫn là niệm kinh cho y.
…………..
Hòa thượng này quả thực rất đáng thương, đã gần một năm rồi mà chẳng có ai đến tìm ông ta, mỗi ngày trừ niệm kinh thì chính là niệm kinh.
Văn Xuân Tương sắp phát khóc vì hòa thượng này rồi.
Để an ủi hòa thượng, Văn Xuân Tương không thuận theo quy luật của Thiên Đạo, từ mùa xuân đến tận mùa đông, hoa vẫn luôn nở.
Đương nhiên, Văn Xuân Tương không biết hành động này của mình cực ngốc.
Đây là lần đầu tiên y đến thế gian, nghiệp vụ vẫn chưa thuần thục.
Làm mẫu đơn trắng, cũng là lần đầu tiên.
Nhưng cao tăng nọ cũng chẳng nói gì, có điều khi mùa đông đến thì chuyển Văn Xuân Tương vào trong phòng, niệm kinh văn cũng dần dần có chút thay đổi.
Không biết có phải là Văn Xuân Tương gặp ảo giác hay không, y luôn cảm thấy từ sau khi hòa thượng này niệm kinh cho mình nghe, tốc độ tu hành của mình ngày càng nhanh hơn. Thậm chí y có thể cảm giác được chẳng bao lâu nữa mình sẽ có thể ngưng kết ra hư ảnh!
Oa oa oa, kết được hư ảnh rồi, lúc đó còn phải lo không hóa thành hình người được sao?
Văn Xuân Tương mừng rỡ đến nỗi mấy ngày không ngủ.
Ngay cả đóa hoa cũng ngạo nghễ vươn thẳng lên.
“Gần đây vui vẻ lắm sao?” Khi tưới nước cho Văn Xuân Tương, cao tăng khẽ cười hỏi một câu.
Không phải ông hi vọng chậu hoa này sẽ nói được cái gì, chỉ là thấy cây hoa mấy ngày nay đều nở rộ vô cùng diễm lệ, tràn đầy vui sướиɠ.
Văn Xuân Tương có nói chuyện được thì người này cũng không nghe thấy, đành phải lắc lư lá cây.
Lắc xong lại có chút hối hận.
Lỡ may phàm nhân này nghĩ mình là yêu tinh quỷ quái thì xử lý thế nào bây giờ?
Dù sao phàm nhân đều như thế cả, phàm là những thứ mình không biết thì đều phải diệt trừ.
“Nếu có khách đến thì nhớ thu hồi cánh hoa lại. Mùa đông hoa mẫu đơn đều tàn rồi.” Cao tăng nhàn nhạt trả lời.
Xí, còn không phải là do thấy ông cô đơn quá sao?
Ngay cả bạn bè cũng chẳng có, ta tốt xấu gì cũng có các ca ca và tỷ tỷ đó.
Văn Xuân Tương trong lòng khinh thường nói một câu, song vẫn lắc lắc lá cây tỏ vẻ đã biết.
Cao tăng lại tiếp tục niệm kinh.
Kinh văn lần này Văn Xuân Tương đều đã nhớ kỹ.
《Phật thuyết bát đại nhân giác kinh》, vi Phật đệ tử, thường ư trú dạ, chí tâm tụng niệm, bát đại nhân giác:
(Là Phật Tử, ngày cũng như đêm, luôn nhớ tám điều, đại nhân giác ngộ)“Đệ nhất giác ngộ, thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy; tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã……… đa dục vi khổ, sinh tử bì lao…….” Cao tăng niệm kinh, tiếng gõ mõ cũng dần chậm lại.
(Giác ngộ thứ nhất, thế gian vô thường, quốc độ mong manh, bốn đại khổ không, năm uẩn vô ngã……. tham nhiều khổ nhiều, sinh tử do dục…….)Văn Xuân Tương thầm niệm tiếp trong lòng: “Thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại.”
Thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại.
(Sống đời vô vi, thân tâm tự tại)(Các đoạn kinh trên thuộc “Phật thuyết bát đại nhân giác kinh”của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 SCN) soạn dịch. Bài kinh bao hàm những điểm chính thuộc cả hai tư tưởng Nhị Thừa và Đại Thừa mà đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng dạy trong suốt 49 năm.)✿Tác giả có lời muốn nói:
Ha ha ha ha ha ha, đây là Xuân Hương hồi đầu rất ngốc rất manh đó, í lộn, là Xuân Tương.
———————————–Tiểu phiên ngoại————————————
Nếu có thể, hắn quả thực không muốn thừa nhận con mèo này và mình là cùng một ổ sinh ra.
Phật Tử miêu yêu có hơi chán chường.
Nhưng mà không thể không thừa nhận, Tam ca như vậy vẫn tốt hơn Tam ca yêu quái ăn thịt người.
“Ta có biện pháp giúp huynh vẫn có cá ăn, huynh đi theo ta, ta sẽ nghĩ cách khiến huynh nhỏ lại.”
“Meo, thật sao meo?” Mèo hoa có cảm giác như mình vừa nghe được tin tức tốt nhất trên thế gian.
“Thật.” Chẳng qua là do dược lực của linh thảo chưa tiêu hóa được nên mới thành ra cái dạng này thôi, nếu hắn giúp Tam ca tiêu hóa hết, có khi còn có thể trực tiếp biến hóa thành công.
“Chúng ta mau đi thôi meo.” Nó không muốn chờ đến ngày ăn một ao cá đã chẳng còn hương vị nữa a meo.
“Đợi chút, ta thu huynh lại trước đã, huynh cứ như vậy ra ngoài sẽ rất dễ khiến người khác chú ý.” Phật Tử miêu yêu nhanh chóng sử dụng pháp thuật thu mèo hoa vào trong tay áo.
Cuối cùng, Phật Tử miêu yêu nhận được mấy chục mẫu đất dưới chùa làm thù lao.
Rất tốt, có thể nhờ nông hộ đào nó thành ao nuôi cá ăn.