Đỗ Hoành đón chén rượu trong tay Tiểu Yến đặt xuống bàn, ngao ngán thở dài: “Nếu thật anh chỉ là Tiểu Yến, mà tôi cũng chỉ là Đỗ Hoành thì tốt biết bao?”
Tiểu Yến biến sắc, dằn lòng hỏi ngược lại y: “Có ý gì?”
Đỗ Hoành nhìn hắn chán chường: “Anh là ai, tôi là ai, trong lòng chúng ta đều minh bạch, làm gì phải nói toạc ra nào?” Đoạn xoay mình cầm cái chén ngửi một hơi, giọng lạnh tanh: “Rượu ngon, tiếc rằng có độc. Người trần mắt thịt như ta sợ không có phúc hưởng.”
Tiểu Yến mặt mày lợt lạt, nhưng lòng đã rất rõ ràng: “Đã biết cả rồi?”
Đỗ Hoành mỉm cười gật đầu, khí sắc ấm áp như gió tháng Ba, ánh mắt lại hun hút như vực thẳm: “Sớm biết cả.”
“Nếu đã biết, tại sao lần ấy còn giải tán hộ vệ trước mặt tôi?”
“Không cho chúng lui thì làm sao ngươi nghĩ rằng ta thật sự tin ngươi?”
Hắn khựng lại, hồi lâu mới hỏi: “Vì sao mà biết?”
“Bởi vì trên đời này làm gì có thứ gọi là sơn quỷ, càng không có thứ gọi là Tiêu.” Y hừ mũi bật cười. “Nếu là gã thư sinh Đỗ Hoành, y sẽ đến Hán Thủy chèo thuyền, sẽ gặp thần nữ, sẽ thấy sơn quỷ, sẽ quen Tiểu Yến. Nhưng phế thái tử Doãn Trân thì không thể. Truyền kỳ duy nhất xảy ra trong đời hắn chỉ là những cuộc ám sát hoa lệ mà thôi.”
“Tiểu Yến”, hắn nghe y êm ái gọi ‘tên’ mình: “Ta không hề tin có sơn quỷ. Ta chưa bao giờ tin. Ta chỉ muốn các người tin rằng:
Doãn Trân tin tưởng.”
Tiểu Yến.
Tiểu Yến.
Tiểu Yến Đỗ Hoành Đỗ Hoành Tiểu Yến… Thì ra đều hư ảo cả. Ai là Đỗ Hoành? Ai là Tiểu Yến? Một đôi tên họ, một đoạn thân thế, mấy bận viếng thăm. Tên họ là bịa đặt, lai lịch là giả trá, vậy những tháng năm đằng đẵng có hai cái tên vui vẻ cười nói đó rốt cuộc thuộc về ai? Về quỷ hoang đường hay người giả dối? Ta còn làm được gì đây? Hắn đột nhiên muốn cười một trận thật to, tốt nhất cứ như vậy mà cười đến chết đi.
Nhưng rốt cuộc lại nghe chính mình đờ đẫn thốt lên: “Tên tôi là Vô Nhiễm. Điện hạ hãy gọi tôi là Vô Nhiễm.”
“Vô Nhiễm.”
Người đó nghe lời thú thật, liền dễ dàng chấp nhận ‘Vô Nhiễm’, giống như lúc trước đã dễ dàng chấp nhận ‘Tiểu Yến’.
“Được rồi. Nói.”
Vô Nhiễm thoạt đầu im lặng, về sau mới bình tĩnh trả lời: “Có gì đáng nói? Tứ hoàng tử Doãn Trân mùa hè nào cũng nghỉ ngơi trong núi Lăng Tiêu, chuyện ngài theo đuổi truyền thuyết sơn quỷ ở vùng này đối với chủ nhân tôi cũng không còn là bí mật. Muốn ra tay, đây chính là thời cơ tốt nhất. Nhưng điện hạ quanh mình lúc nào cũng có hai mươi tám cao thủ đệ nhất âm thầm bảo hộ, muốn qua mặt họ ám sát hay hạ độc ngài đều bất khả thi.”
“Vì thế ngươi bày trò tá túc, chờ được ta tin tưởng thì lợi dụng tích sơn quỷ mượn bát, sai đồng bọn giả bầy quỷ đến vạch trần ‘Tiêu’, chỉ để rót cho ta chén rượu ‘tự tay ủ lấy’ này. Bốn năm. Kiên nhẫn cũng không phải nhỏ.”
Doãn Trăn cười nhạt, gằn mạnh vào hai tiếng ‘tự tay’.
Tiểu Yến mệt mỏi nhắm mắt lại: “Tôi là thích khách, chỉ biết dùng cách dễ thành nhất mà thi hành nhiệm vụ.”
“Không tồi. Tìm được cách dễ thành công nhất, mà cũng suýt nữa thành công.” Doãn Trân đến bên bàn, nét cười nơi khóe miệng có chút đăm chiêu: “Hai chén rượu… Có sẵn thuốc giải?”
Vô Nhiễm gật đầu: “Được cho nửa viên, nửa còn lại chỉ cần hoàn thành nhiệm vụ, quay về trong vòng ba ngày sẽ toàn mạng.”
Doãn Trăn cười lớn: “Nửa viên thuốc đó đâu? Muốn tự lấy ra hay muốn ta lục soát?”
Vô Nhiễm thần người, móc trong ngực áo ra cái lọ con. Một hộ vệ nhanh tay tiếp lấy, mở nút ngửi qua rồi gật đầu xác nhận, kính cẩn đặt vào tay Doãn Trăn. Y đổ thuốc giải ra lòng bàn tay, nhìn đăm đắm một lúc lâu, rồi thình lình dốc thẳng viên thuốc kia vào miệng. Vô Nhiễm bàng hoàng chưa kịp thốt nên lời, Doãn Trăn đã ngửa đầu uống cạn chén rượu.
“Ngài điên rồi!” Vô Nhiễm bừng tỉnh thét lên, nhào đến giật phăng cái chén.
Doãn Trăn cúi đầu thán một câu: “Quả là rượu ngon…”
Vô Nhiễm trân trân nhìn lòng chén chỏng chơ, lại nhìn người đối diện mình, run rẩy không ra hơi: “Chỉ có nửa viên… Chỉ có nửa viên…” Hắn quát lên xé họng: “Ngài điên rồi ngài biết không? Ngài sẽ chết đó!”
Doãn Trăn cười như có như không: “Ta điên rồi, thế còn ngươi? Ngươi cũng điên rồi sao? Không phải từ đầu đã là như vậy? Yên tâm, nửa viên thuốc này không cứu được mạng ta, nhưng ba ngày đã đủ để quay lại kinh thành.”
Hắn không tin vào tai mình: “Tại sao phải làm như vậy?”
“Hiện giờ sức khoẻ phụ hoàng ngày một suy tàn, mùa đông vừa rồi đã hôn mê hai bận, trong khi ngôi thái tử vẫn lần lữa chưa có kẻ lên thay. Vì sao – trong triều ngoài chợ đều rõ cả. Rằm tháng Giêng phụ hoàng lập đàn tế vong mẫu hậu, đột nhiên đọc hai câu điếu:
‘Xưa vì thiên hạ tự gánh, nay vì ái tử phó thân’. Tâm niệm cả đời người chỉ sợ một ngày phải theo vết xe đổ của Ngụy Vũ Đế. Đến nước này ta còn sống thì đám chủ ngươi khó lòng kê cao gối ngủ. Năm nay chính là cơ hội cuối cùng của chúng rồi.”
(
Hướng dĩ thiên hạ tự nhiệm, kim dĩ ái tử thác nhân. – Điếu Ngụy Vũ Đế văn, Lục Cơ đời Tấn đọc di ngôn của Ngụy Vũ Đế Tào Tháo cảm thán mà viết. Sau khi Tào Tháo chết, Tào Phi kế vị đã bức chết hai em mình là Tào Thực, Tào Chương)
Người đó bỗng lâm vào trầm tư, cuối cùng nói khẽ: “Ta cứ nghĩ, chẳng may ngươi không xuống tay thì giải quyết thế nào đây? Với ta mà nói, hôm nay cũng là cơ hội cuối.”
“Ngươi biết vì sao mình thất bại không?” Doãn Trăn nhìn như đóng đinh vào hắn: “Ngươi dùng năm năm để dựng nên kế hoạch này, nhưng ta đã mất mười lăm năm mới đợi được đêm nay. Đêm nay, dù chén rượu kia không có độc, vào tay ta cũng sẽ thành có độc!”
Vô Nhiễm thoắt rùng mình, nháy mắt sức lực như rút cạn, khí lạnh từ gan bàn chân chạy ngược lên huyết mạch, máu trong người đông lại thành băng. Hắn rúm ró nhếch môi: “Lời này có ý gì…?”
Doãn Trăn không buồn đáp. Bẵng đi một lúc, y chỉ đăm đăm nhìn vào lùm cỏ trước sân. Trong im lặng dị thường, y bỗng nói: “Nghe này.”
“… Cái gì?”
“Thơ.”
“Thơ?”
Vô Nhiễm ngẩn người. Ắng tai nghe, ngoài kia chỉ có côn trùng đầu hạ rả rích kêu vang, còn lại đều hoàn toàn tĩnh lặng. Tiếng râm ran lên xuống rất trầm, nhưng càng nghe chuỗi âm thanh đó càng dầy tràn vang dội, ùn ùn kéo đến trào mặt đất, đổ đầy từng tấc vuông của đêm hè.
Hắn tần ngần hỏi: “Nơi đó có thơ?”
“Đầy mặt đất đấy, không nghe thấy ư?” Doãn Trân đáp nhẹ tênh trong đêm vắng.
“Hồi còn bé, cứ đến hè mẹ ta lại ngồi trong nhà thủy tạ ở ngự hoa viên, cả ngày nghe côn trùng rỉ rả. Ta hỏi bà đang nghe gì vậy, bà đáp, đang nghe ve dế đọc thơ. Ta không chịu tin, cứ quấn lấy bà đòi giải thích rõ ràng. Khi đó bà cũng trả lời như vậy:
Đầy mặt đất đấy, chỉ là Doãn Trân chưa nghe thấy đó thôi.”
“Một năm kia, ta rời cung dưỡng bệnh. Tối hôm ấy mẹ đột nhiên phái người đến nói:
Mỗi năm hè tới, nhớ nghe ve dế đọc thơ. Đó là bài thơ hay nhất trên đời. Câu nào cũng là ngũ tuyệt, chữ nào cũng sát vần gieo. Mấy trăm mấy vạn năm nay, chúng vẫn luôn hát một câu này: tịch, tịch, tịch, tịch, tịch.”
“Ta quất ngựa cả đêm không nghỉ, về đến kinh thành thì mẹ đã qua đời. Năm ấy, ta mới mười hai.”
Tịch, tịch, tịch, tịch, tịch…
(
Tịch 寂: vừa mô phỏng tiếng trùng kêu, vừa có nghĩa là “cô độc”)
Bản đồng ca mùa hạ vang lên khắp bốn bề, cuộn vào tầng gió như hình với bóng, chao đảo trong màn đêm sâu thẳm không khởi nguồn không điểm cuối, vĩnh viễn không ngừng ngơi.
Hắn cảm thấy nhục thể và con tim như bị xé làm đôi, tách ra, không thể hợp thành, không thể nhập vào nhau lần nữa. Trong mắt tràn đầy hình dáng nhìn nghiêng của Doãn Trân, nghe giọng y đâm vào tận đáy lòng.
“Có phải trong lòng mỗi người đều có một vết thương? Một khi bị khơi ra, thì chính là tử huyệt?” Doãn Trăn lẩm bẩm một mình, không hề quay lại nhìn Vô Nhiễm.
“Mẹ ta là hoàng hậu Văn Chiêu, hậu duệ họ Thẩm lừng lẫy đất Hoài Nam. Năm xưa khi thất long đoạt đích vào hồi thảm liệt nhất, ông ngoại ta đã làm đến Hữu thừa tướng, chú bác trong họ nắm trong tay hàng loạt vị trí quan trọng của triều đình. Phụ hoàng vốn là con thứ, thế cô lực mỏng, vì muốn mượn vây cánh Thẩm gia mà cưới con gái duy nhất của ngoại làm chính phi, nhờ Thẩm gia tương trợ đi đến đích cuối cùng. Mẹ danh chính ngôn thuận bước lên ngôi hoàng hậu, còn ta trở thành thái tử khi mới được sinh ra.”
“Ngươi xem, hết thảy đều mỹ mãn? Chỉ tiếc đều là giả! Họ Thẩm Hoài Nam phò Hoàng đế ngồi vững ngai vàng liền thừa cơ mượn gió bẻ măng, thế lực ngày một lớn, rốt cuộc thành con ong tay áo. Phụ hoàng nhẫn nại chịu đựng, âm thầm trù tính suốt mười năm, đến năm Thái Hòa thứ mười bốn thì hạ chỉ đem cả nhà họ Thẩm chém đầu. Chỉ trong một đêm phủ họ Thẩm ngựa xe như nước trở thành biển máu núi xương. Bắt đầu từ đêm đó ta được gọi là phế thái tử. Cũng là đêm đó, mẹ ta ở trong cung uống một ly rượu độc.”
“Trong ký ức của ta, mẹ là một đường nét nhạt mờ, lẻ loi ngồi giữa hồng tàn lục úa, thỏ lặn ác tà, ngạo nghễ mà tịch mịch mỉm cười. Tháng năm trôi đi, bà ngồi đó nhìn đóa quỳnh ra hoa rồi tàn héo. Mẹ chưa và sẽ không bao giờ là người phụ hoàng sủng ái nhất, nhưng bà lại là người ông yêu nhất trong đời. Khi bà còn sống, những ngày hai người ở bên nhau bị phân hợp loạn ly làm rã rời kiệt quệ, không tranh cãi thì ngờ vực vô duyên cớ, suốt mười bốn năm dằn vặt lẫn nhau. Lãnh cung còn điêu tàn hơn điện hậu. Hoàng đế chưa bao giờ đối tốt với hoàng hậu, nhưng không ai biết ngoài giang sơn xã tắc trong lòng phụ hoàng chỉ có duy nhất một bóng hình. Khi ông ban cho bà cái chết, giây phút bà cạn ly rượu độc, giữa bọn họ ai là người được giải thoát? Đến tột cùng, là ai giải thoát ai?”
Y trầm mặc thật lâu, rồi quay đầu nhìn hắn, trên mặt lại hiện ra nét cười lạ lùng ban nãy, ủ rũ, giễu cợt, thê lương.
”Trong lòng phụ hoàng có một vết thương, ngươi biết là gì không?”
Ngừng một lát, y tự trả lời: “Vết thương trong lòng phụ hoàng chính là ta, thái tử bị phế đã nhiều năm lại vẫn là hoàng tử người thương yêu nhất. Bởi vì ta là con của mẹ. Hoàng hậu đã chết, cho nên ta phải sống, dù không còn là thái tử phụ hoàng cũng sẽ hết lòng bảo vệ ta sống sót đến cùng. Làm hại ta tức là gϊếŧ chết người phụ nữ ông yêu lần nữa. Ngươi thấy đấy, hoàng đế còn sờ sờ ra đó mà bao kẻ đã âm thầm muốn trừ khử Doãn Trân? Đến khi người long giá về Tây, còn ai có thể bảo vệ ái tử của người được nữa?”
”Còn… còn một người có thể…”
Vô Nhiễm thì thào lẩm bẩm, lập tức hiểu ra.
Doãn Trăn phá ra cười: “Đúng vậy, còn ai có thể cứu Doãn Trăn ngoài chính y đây? Để Doãn Trăn tự bảo vệ mình, thì phải được thừa kế ngai vàng, quân lâm thiên hạ!”
Hắn trân trối nhìn y, đột nhiên bật hỏi: “Ngài không muốn biết ai sai tôi tới ư?”
”Nhị ca? Lục đệ? Mười hai huynh đệ, chín tỷ muội, ba hoàng thúc, đám nguyên lão đầu triều, bầy phi tử hậu cung? Vô Nhiễm, ngươi sai rồi. Ta không cần hỏi. Đều không quan trọng nữa. Quan trọng là phụ hoàng biết được có nhiều người muốn lấy mạng ta như vậy. Ta đợi ngày này… đợi đã mười bốn năm!”
Người đó nói xong liền thở ra một hơi thật dài, giống như trong hành động ấy đào khoét hết những tâm sự đóng bụi trong l*иg ngực. Y bước về phía hắn, tay phải vươn ra lướt qua sườn mặt, ánh nhìn đọng trong mắt nhau như chìm sâu xuống đáy, lắng thành lớp cặn mờ mịt buồn rầu.
“Thật đẹp. Mỗi khi nhìn ngươi ta lại đâm ngờ vực, hay người trước mặt đây thực sự là sơn Tiêu mỹ lệ? Ta cũng thường tưởng tượng nếu cả đời có thể nhìn ngươi thì mãn nguyện bao nhiêu. Cần ngươi chóng ra tay, lại hy vọng ngươi không hạ thủ. Muốn cùng ngươi xuân đến dắt hoa, thu nùng ủ rượu, cứ thế một đời. Vô Nhiễm, Tiểu Yến, ta nên xử ngươi thế nào đây?” Y thản nhiên cật vấn, giọng không mang cung bậc.
Hắn rốt cuộc không dằn lòng nổi, nước mắt bất giác trào ra.
Bàn tay Doãn Trăn mát lạnh vuốt nhẹ đầu mày hắn, lướt qua viền môi.
“Còn nhớ ta kể với ngươi không, trăm năm về trước có một chàng trẻ tuổi cùng đám chị em mới lớn tham thiền. Anh ta thường bảo:
Dù cho nước Nhược ba ngàn, tôi chỉ lấy về một gáo, nhưng cuối cùng chỉ câu này ứng nghiệm:
Người đã vô tâm, ta liền thôi. Giống như hoa quỳnh nở trong đêm, sáng ra liền tàn úa…”
Trên má hắn còn vương vít hơi giá từ tay y.
Doãn Trân nhắm mắt lại, khi mở ra lần nữa nét mặt đã rắn đanh: “Ngươi đi đi.”
Ngươi đi đi…
Hạt giống tàn lạnh trong lòng y cuối cùng cũng nảy mầm, ở giữa ba chữ nhẹ tênh kia nở ra một đài hoa tuyệt vọng, thế rồi toàn bộ sinh mệnh lại hóa thành cát bụi tiêu tán.
“Ngài thả tôi…?” Hắn thoạt đầu trầm mặc, rồi thì thào hỏi.
“Ta thả ngươi.”
Vô Nhiễm im lìm một lúc lâu, méo mó cười, lê thân đứng dậy đi ra cổng.
Bỗng có tiếng binh khí tách ra, nhường đường cho một người bước tới.
“Vô Nhiễm.”
Doãn Trăn gọi hắn giữa chừng vơi, nhưng rất lâu sau vẫn không nói thêm gì. Cây cối mùa hạ xanh rợn chân trời, hoa quỳnh vừa nở hồi đêm bây giờ tàn lụi, rủ oặt héo vàng không mê mị được ai.
Vô Nhiễm ngoảnh đầu lại, thấy người trẻ tuổi kia đang đứng dưới hiên nhà. Bảy bước mà xa, nụ cười như gió xuân, ánh mắt như vực thẳm. Hắn quay lưng về phía Doãn Trăn, trân mình nở một nụ cười, rồi dứt khoát đi qua cổng.
“Người đâu! Có thích khách! Có thích khách!” Sau lưng, tiếng thét của Tiểu Tứ vυ"t lên, cắt qua hừng đông.
.
Hắn đi vào cánh rừng lọt trong hẻm núi, mớ tóc đen rưng rức bị gió núi xổ tung, phần phật như cô hồn giữa buổi mai. Tiếng chân người đánh động bầy đom đóm, hàng vạn đốm lửa ùa ra từ lòng núi tụ lại thành dòng chảy ánh sáng lơ lửng giữa chừng trời, hắt những tia lưu ly lên ngón tay ngọn tóc, dày đặc không ngừng ngơi.
Lúc trời sắp rạng, thiên địa chuyển mình, ánh sáng đầu tiên của ngày mới lọt vào mắt Vô Nhiễm như mũi kim bí mật. Hắn choàng tỉnh ngẩng đầu lên, thấy mình đứng trên đỉnh núi nhìn vầng dương đỏ ối.
Quay đầu lại, Vô Nhiễm không thấy đoàn xe hộ tống Tứ hoàng tử hồi triều đã xuất phát hay chưa. Trong mắt hắn lúc này chỉ có thôn làng lô xô như bát úp, ruộng đồng bát ngát xanh tươi, một dải núi đồi l*иg lộng.
Giang sơn gấm vóc trải ra như bức họa đồ, vạn dặm ngút ngàn đáy mắt. Từ xưa đến nay biết bao anh hùng hào kiệt, ít nhiều bậc chí lớn tài cao đã nhìn trời đất bao la này mà nuôi mộng bá chủ non sông? Vì thế mà Chu Công nhả cơm, Nghiêu Phu nhầm dép chiêu nạp thiên hạ hiền tài. Nội có học trò Tử Phòng, Vô Kỵ bày mưu trong màn trướng mà quyết định thắng bại ở ngoài ngàn dặm; ngoại có quân đội binh hùng tướng giỏi, tên nỏ vạn mối, roi ngựa lấp sông tranh đoạt Trung Nguyên. Lại có những Cai Hạ ca, Bình Lạc yến, rượu Kim Cốc, mộng Liêu Tây giữa sơn hà xuân đến nhuộm đỏ khói mây.
Núi rộng sông dài, một giang sơn như thế!
.
“Ta không tin có sơn quỷ. Cho tới bây giờ cũng không.”“Muốn cùng ngươi xuân đến dắt hoa, thu nùng ủ rượu, cứ thế một đời.”“Ta đợi ngày này, đợi đã mười bốn năm.”Lời người ấy rốt cuộc câu nào thật, câu nào giả, câu nào tin tưởng được? Lòng người ấy rốt cuộc vô cùng vô tận đến đâu?
Ngày đó, Vô Nhiễm đứng lặng thật lâu trên đỉnh núi.
.
(Thổ bộ đảo lữ – nhả cơm nhầm dép: Chu Công Đán nhà Tây Chu quý trọng người tài, đang tắm gội hay ăn cơm mà nghe có kẻ sĩ đến lập tức búi tóc, nhả cơm ra đón tiếp. Thiệu Nghiêu Phu đời Tống biết con trai Âu Dương Tu là Âu Dương Thúc Bật tới liền mừng rỡ đến mức đi nhầm dép trái ra chào.Tử Phòng: tức Trương Lương, khai quốc công thần nhà Tây Hán. Vô Kỵ: tức Tín Lăng Quân Ngụy Vô Kỵ, người được cho là khí khái anh hùng nhất trong Tứ công tử Chiến Quốc.Đầu tiên đoạn giang – roi ngựa lấp sông: Tần vương Phù Kiên thôn tính miền Bắc, dẫn trăm vạn quân đánh miền Nam, kiêu hãnh nói rằng binh sĩ chỉ cần ném roi ngựa xuống Trường Giang là đủ tắc dòng.Ca Hạ ca: bài thơ Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ làm khi bị quân Hán bao vây ở thành Cai Hạ. Bình Lạc yến: yến tiệc Trần Tư Vương Tào Thực bày ở Bình Lạc dùng hết mười ngàn đấu rượu. Kim Cốc tửu: văn nhân thi sĩ mở thi xã trong vườn Kim Cốc của Thạch Sùng đời Tấn, ai không làm được phạt uống ba đấu rượu. Liêu Tây mộng: giấc mơ gặp lại của người chinh phụ có chồng chinh chiến ở Liêu Tây)*
Một năm sau, Thái Hòa đế băng hà.
Tháng Bảy cùng năm, Tứ hoàng tử Doãn Trăn kế vị, sửa niên hiệu thành Trị Bình.
Về sau, trong dân gian lưu truyền một chuyện kể của cánh tiều phu đốn củi. Sâu trong rừng trúc ở núi Lăng Tiêu có một bóng nhà hoang, là nơi sơn quỷ đi về, tóc tựa mây bay, mắt như mực tối. Khi trong gió nghe thấy tiếng nước ngầm đang chảy là lúc con quỷ toàn thân xanh biếc xinh đẹp yêu mị đang dạo giữa rừng hoang. Mỗi năm hè đến, đêm nào sơn quỷ cũng treo đèn l*иg ngoài cửa. Không biết là soi bước chân ai hay thắp sáng đường nào.
Dường như có người trên góc núiKhoác cỏ thơm, lưng thắt dây tơMắt ngóng nhìn, cười mỉm như mơDáng thiết tha, dịu dàng, xinh đẹp.Xe mộc lan dùng báo đỏ kéoCờ ngọc quế dắt chồn hoa theoMui xe lan buộc đai đỗ hạnhTìm hoa thơm hái tặng người yêu.Chốn thâm sâu trời đâu chẳng thấyĐường gập ghềnh, ta đến trễ chăng?Một mình lẻ bóng trên đỉnh vắngMây mờ giăng kín phía lưng chừngNgày tựa đêm âm u mù mịtGió đông vờn mưa hiển thần linhNgóng trông chàng, đường về quên lốiTuổi xuân tàn tươi lại đâu mình?Hái linh chi bên bờ khe suốiĐá lởm chởm, dây sắn rậm rìOán giận chàng, lòng chẳng muốn điChàng nhớ ta nhưng chàng chẳng đến.Người trong núi khác nào cỏ thuốcĂn bóng tùng, uống nước suối trongNgóng đợi chàng, dằng dặc chờ mongChàng nhớ ta nhưng chàng ngờ ngại.Tiếng sấm rền, mưa mù u ámVượn hú đêm, não nuột tiếng kêuGió rì rào, lá rụng tiêu điềuNhớ mong chàng, chia lìa đứt ruột.Nhớ mong chàng, chia lìa đứt ruột.(Sửa lại bản dịch Sơn quỷ của cô Phạm Thị Hảo)