Sở bá kéo cổ áo Giản Thư ra, để lộ một mảng da trắng nõn. Giản Thư bị hành động của lão dọa sợ, theo bản năng rụt về phía sau. Nhưng Sở bá không thèm để ý, nheo mắt nhìn cổ và vai của cậu một lúc, sau đó sắc mặt mới nhẹ nhõm đi một chút.
“A Thanh, cậu làm rất tốt, linh văn không có vết bẩn.” Khuôn mặt Sở bá xuất hiện nụ cười đầu tiên từ khi bước vào phòng. Làn gia già nua đầy nếp nhăn của lão vì tươi cười mà trở nên hơi dữ tợn, khiến lòng Giản Thư run lên.
A Thanh rất thuận theo: “Cảm ơn ngài đã không trách cháu lơ là.”
Sở bá hiển nhiên đã rất tức giận, nhưng Giản Thư đã bình an vô sự trở lại, vươn cằm nói với người áo xám phía sau: “Xử lý phế vật này đi, sau đó dẫn người đi chuẩn bị đồ đạc.”
Hai người cung kính đứng trong hàng chờ lập tức bước ra, lôi người đàn ông đang hộc máu, nửa sống nửa chết trên đất lôi ra ngoài. Một nhóm bốn người khác rời đi, A Thanh cũng đi làm theo lệnh của Sở bá.
Sở bá vững vàng ngồi trên chiếc bàn đối diện với Giản Thư. Có lẽ là vì Giản Thư đã trốn thoát được một lần, cho nên lão già này đã mất kiên nhẫn, tự mình túc trực ở đây.
Ban đầu, Giản Thư không tin những lời dì Lý nói. Khi dì kích động, nói năng không có logic, nghe có vẻ không giống như một người bình thường. Nhưng bây giờ, sự bất thường của Sở bá và những người xung quanh dường như đã chứng minh mọi lời dì Lý nói đều là sự thật.
Từ đường Giản thị, thực sự gϊếŧ người.
Có người từng nói rằng, điều đáng sợ hơn cả cái chết là chờ chết. Trong một khắc này, Giản Thư sâu sắc cảm nhận được sự tuyệt vọng khi chờ đợi cái chết. Mỗi giây Sở bá nhìn cậu, cậu như một con cừu năm trên thớt, nhìn lưỡi dao sắc bén của đồ tể không biết khi nào sẽ chém xuống.
Tích tắc, tích tắc, chiếc đồng hồ quả lắc trên bàn xoay từng giây, đếm ngược cuộc sống của cậu.
Mãi đến tận 10 giờ rưỡi yoois, A Thanh lần nữa xuất hiện ở cửa, áo quần trên người ướt sũng do mưa, trong tay còn xách một hộp gỗ lớn.
“Sở bá, mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng.” Cậu ta nói.
“Được.” Sở bá đứng dậy đi ra ngoài, “Đưa cậu ta ra đây.”
Hai người mặc áo xám có thân hình cao lớn đứng canh trong phòng, sức lực túm lấy Giản Thư như thể muốn bóp nát xương cốt của cậu, kéo cậu ra khỏi phòng.
Trong sân tối tăm, một cỗ kiệu màu trắng xuất hiện có vẻ đột ngột lạ lùng. Bốn người mặc áo xám trước đó đã thay thành áo trắng, cung kính canh giữ ở bốn góc của cỗ kiệu, mặc cho mưa rơi xuống người.
Một cỗ kiệu màu trắng tinh khiết như vậy, cùng với bốn người nâng kiệu kỳ lạ, trở nên vô cùng quỷ dị trong đêm mưa.
“Ô!” Họ muốn đưa cậu đi đâu?
Giản Thư chưa kịp phản ứng, đã bị người nhét trong kiệu. Bên trong chật hẹp tối tăm, liên tục có tiếng mưa rơi trên nóc xe. Cậu chưa kịp ngồi vững, những người nâng kiệu đồng loạt đẩy mạnh, làm cho cỗ kiệu đột nhiên nâng lên, khiến cho Giản Thư ngã về phía sau.
Chuyện gì đang xảy ra?
Giản Thư bị nhốt trong kiệu, không biết gì cả. Cậu thấp thỏm bất an hồi lâu, chỉ có thể nghe thấy tiếng mưa gió bên ngoài mành.
Mưa đêm nay có vẻ lớn hơn so với hai ngày trước.
Cơn gió từ xa thổi qua làm cho người đàn ông áo xám bên cạnh Sở bá không thể cầm chắc cái ô. Sở bá hơi hơi nghiêng đầu liếc mắt nhìn gã một cái, không biết là tay người áo xám nắm chặt tay hơn hay là vì lý do gì khác, gió càng lúc càng nhỏ đi khi đến gần họ. Cái dù màu đen dựng an ổn trên đầu Sở bá, khiến cho đám người xung quanh càng có vẻ chật vật.
Mành bị gió thổi bay, để lộ ra một hàng tường cao không biết được xây dựng từ bao giờ, màu sắc u ám. Cỗ kiệu tiếp tục đi dọc theo hàng tường, màn đêm càng lúc càng tối, sau khi đi khoảng hai mươi phút, người nâng kiệu mới chậm rãi dừng lại, đặt cỗ kiệu dưới mái hiên.
Sau cơn mưa gió, xung quanh trở nên yên tĩnh hơn.
Giản Thư nghe thấy tiếng mở hộp gỗ, lấy ra dụng cụ gốm sứ từ bên trong. Những thứ đó được đặt cẩn thận ở một nơi không xa cỗ kiệu, lúc sau còn vang lên tiếng viết “sàn sạt”, giống như ai đó đang cầm một cây bút lông khổng lồ, tập viết thư pháp trên mặt đất.
Chờ họ sắp xếp xong hết thảy, người đàn ông cao lớn vẫn canh giữ cạnh cỗ kiệu kéo mành lên, nắm lấy cổ áo Giản Thư, mang cậu ra ngoài.
Sau khi quỳ gối một lúc lâu, chân cẳng của Giản Thư đã tê cứng, bước đi loạng choạng.
Cậu nhận ra là mình đã bị mang về nội trạch!
Chỉ là bây giờ, cửa lớn của nội trạch đã khép kín, trên khoảng đất trống dưới mái hiên vẽ một bức phù văn đỏ tươi, to lớn, nhưng chưa khô.
Giản Thư bị ấn vào phù văn, đầu gối cọ vào chất lỏng sền sệt. Giống chu sa, lại càng giống máu tươi hơn. Ở bốn góc của phù văn hình vuông, mỗi góc đặt một chiếc đèn l*иg màu trắng. Và ở gần cửa chính, có một cái lư hương rỗng được đặt giữa hai cái đèn l*иg.