Chương 2: Chỗ Đặt Chân

Cách đây một thời gian ông lão bị bệnh nặng, hôm nay mới hồi quang phản chiếu liền trực tiếp đi tới cửa thành, nhưng thật sự cũng không còn bao nhiêu khí lực.

Lão gian nan cúi người xuống, dùng hai tay nhặt đầu lên, bản thân cũng là người sắp bước một chân vào hoàng thổ rồi, có bị làm sao thì cũng mặc kệ chứ không thể để Tưởng tướng quân từng bảo vệ dân chúng Vệ thành chịu nhục.

Hạ Tuế An không cảm thấy ông lão đang lừa nàng.

Bởi vì thân thể của ông vừa nhìn là biết thuộc loại yếu ớt đến mức không thể nhấc vật nặng.

Nàng đồng ý.

Ông lão thỉnh Hạ Tuế An cầm cái đầu này trước, sau đó ông lập tức đi mượn mấy cái dụng cụ đào hố tới đây, đến lúc đó chôn Tưởng tướng quân ngay tại chỗ trống bên cạnh cửa thành luôn.

Nói xong, ông lão đi tìm người mượn.

Hạ Tuế An lấy ra một mảnh vải từ trong túi hành lý, lúc nàng tỉnh dậy thì chiếc túi này đã ở bên cạnh nàng, sau khi lấy mảnh vải quấn chặt cái đầu này lại, tim nàng đập như nổi trống dồn dập, thật ra nàng cũng rất sợ hãi.

Suy cho cùng thì nàng cũng chỉ là một người bình thường mà thôi.

Ông lão nhanh chóng mượn được đồ rồi bọn họ cùng nhau chôn đầu Tưởng tướng quân.

Ông liên tục nói cảm ơn với Hạ Tuế An, sau đó rời đi, ông không có nhà, là một kẻ lang thang, ông đã từng lấy Vệ thành làm nhà, nhưng cũng không có cách nào thu nhận nàng.

Vì thế nàng đành một thân một mình đi tìm chỗ đặt chân.

Trên phố xá chẳng thấy một bóng người.

Dân chúng còn sống sót trong Vệ thành ai có năng lực thì nhanh chóng chạy trốn, không có năng lực thì chỉ có thể ở lại Vệ thành.

Trời đông giá rét, không có nơi nào để đi.

Dù sao Vệ thành ở biên cảnh, nếu muốn đi tới Tấn thành cách nơi này gần nhất cũng phải cưỡi ngựa chạy nước rút năm ngày.

Dân chúng Vệ thành lo lắng hãi hùng, nghĩ đến xác suất nếu chạy loạn để rồi chết cóng trên đường là quá lớn cho nên đành lưu lại được ngày nào hay ngày ấy, mong ngóng triều đình sớm ngày phái người tới cứu bọn họ ra khỏi nước sôi lửa bỏng.

Nhưng từng ngày từng ngày trôi qua, người chết ngày càng tăng thêm, giống như địa ngục màu trắng.

Trên đường cũng không có ai.

Hạ Tuế An đưa một tay đón lấy bông tuyết, không hề dừng bước mà vẫn tiến về phía trước.

Một chiếc đèn l*иg vỡ nát rơi trước cửa hàng đã đóng chặt, giống như không có người.

Những ngôi nhà bị người Hồ phá hư cũng chưa được tu sửa, gỗ gãy lăn lóc trên mặt đất ngổn ngang, không ai để ý.

Nhìn quanh, có vẻ như không có một cửa hàng nào mở cửa. Nguyện vọng của Hạ Tuế An là muốn uống một ly trà nóng hầm hập chắc không thể thực hiện được.

Nàng thử gõ cửa từng nhà một.

Trời đông giá rét, buổi tối mà phải ngủ bên ngoài nếu không lạnh chết thì cũng sinh bệnh thôi.

Sau khi gõ cửa mấy căn nhà nhưng chẳng có ai mở cửa, có hai ngôi nhà vẫn nhìn thấy dấu vết bốc khói nấu nướng, chứng tỏ lúc này đang có người ở.

Dân chúng Vệ thành vừa bị bọn người Hồ gϊếŧ hại và cướp bóc cách đây không lâu cho nên không dám tùy tiện mở cửa cho người xa lạ.

Đang lúc nàng muốn từ bỏ việc gõ cửa thì một quán trọ đối diện lén lút mở cửa.

“Tiểu cô nương.”

Có người gọi nàng.

Hạ Tuế An kinh ngạc xoay người. Người trong quán trọ kia lại đẩy khe cửa rộng ra thêm chút, là một bà lão, tựa hồ đang kiểm tra xem bên ngoài có nguy hiểm gì không: “Tiểu cô nương, cháu lại đây đi.”

Cuối cùng cũng có người chịu cho nàng ở lại.

Hốc mắt Hạ Tuế An hơi hơi ẩm ướt.

Sợ sẽ hiểu sai ý, nàng muốn nhận được câu trả lời chắc chắn bèn cẩn thận hỏi: “Ngài nguyện ý để cho con ở lại đêm nay sao?”

Bà lão đẩy cửa ra để Hạ Tuế An đi vào: “Ừ, hôm nay lạnh lắm, một tiểu cô nương như con phải ở bên ngoài vào đêm khuya gió rét thế này, không bị đám sói hoang kia tha mất thì cũng bị chết lạnh.”

“Con cám ơn lão.”

Nàng lắc lắc cho tuyết trên người rơi bớt rồi đi vào.

Chờ Hạ Tuế An đi vào, bà lão cũng đóng kỹ cửa, cài then chốt rồi chậm rãi đi tới trước bếp lò đốt than củi, gian nan cúi người đẩy nó đến bên cạnh nàng: “Lão đi làm chén cháo nóng cho con.”