Phương Tà Chân tỉnh lại là chuyện của hai canh giờ sau. Gã giãy giụa, lăn lộn giữa một biển lửa khổng lồ, đột nhiên giật mình tỉnh giấc.
Khi gã tỉnh lại liền ngửi thấy mùi hoa sen thơm ngát, chim hót líu lo.
Bên ngoài khung cửa sổ hình lá chuối, là một đoạn lan can ngắn, tiếp đó là một mái hiên rộng dẫn ra một hành lang hình tròn, ước chừng dài hai ba chục trượng, bên ngoài hành lang là một hồ sen đỏ hồng, những chiếc lá xanh che phủ mặt hồ.
Trên thư án đặt ba chiếc giá nến, hồng lạp đã cháy gần hết. Gian phòng trần thiết thập phần thanh nhã, bên trong cũng rất rộng rãi, trên trần nhà còn có treo cả đèn lưu ly.
Bên cạnh chiếc giường gã đang nằm là một chiếc bếp nhỏ, bên trên đặt một chiếc ấm đồng, bên dưới có tia lửa bắn ra, dường như đang cháy rất mạnh.
Phương Tà Chân vừa tỉnh lại liền biết mình chưa chết.
Đã từ nhiều năm nay, gã đã không còn cảm thấy sống là một chuyện vui vẻ. Tuy nhiên, trước đây nhiều năm, gã đã từng có những ngày khoái lạc vui sướиɠ, một thời gã cũng cho rằng cuộc đời này tràn đầy hoan lạc và sung sướиɠ. Gã hưởng thụ từng tia nắng mặt trời, từng trận gió mát. Mỗi một khắc đều là thời gian tươi đẹp, một một người đều là người tốt.
Gã từng cảm thấy mình là người may mắn nhất thế gian.
Nhưng giờ gã không còn nghĩ vậy nữa.
Từ rất lâu rồi gã không còn nghĩ như vậy nữa.
Gã đã từng cảm thấy mình bất hạnh, lòng chết nhưng người vẫn sống.
Có ai biết được mùi vị của cái chết trong lòng là thế nào? Đó chính là sống mà không có sự đợi chờ.
Sống một cuộc sống không có bất kỳ hy vọng và chờ đợi.
Từ sau lần kinh biến đó, gã chỉ còn lại một tấm thân bị tàn phá và một trái tim đau đớn. Thế nhưng, kể từ khi Nhan Tịch rời khỏi, gã đã không còn cảm thấy hạnh phúc hay là bất hạnh nữa rồi.
Gã cơ hồ như đã mất đi cảm giác.
Gã cảm thấy sự huy hoàng của sinh mệnh đã trở nên tịch mịch, vẻ sáng lạn đã dần dần mờ mịt, vẻ thôi hồn đoạt mục đã dần dần phai sắc, sinh mạng của gã giờ giống như một tiếng thở dài bị đứt đoạn, một phiến lá khô bị gió thu thổi bay xuống đất.
Điều kỳ lạ là, trong tình cảnh sống mà như chết ấy, học vấn và võ công của gã lại tiến bộ thần tốc, liên tiếp đạt được những đỉnh cao mới, đạt đến những cảnh giới trước giờ chưa ai đạt được.
Lẽ nào đời người muốn “được” thì phải “mất” trước?
Lẽ nào không có mất mát thì không sở đắc…
Giữa được và mất, rốt cuộc là có bao nhiêu phần được, bao nhiêu phần mất?
Có lẽ là vì gã vất bỏ tất cả, tiến vào cảnh giới vô sinh vô tử, vô dục vô cầu nên đã thấu hiểu được kiếm pháp thượng thừa, đạt đến cảnh giới ám nhiên tiêu hồn.
Từ Thiên Vấn kiếm pháp, gã đã ngộ ra Tiêu Hồn kiếm pháp.
Gã có được thành tựu kinh người về khinh công đề tung thuật: Vạn Cổ Vân Tiêu Nhất Vũ Mao.
Nhưng gã không hề vui, cũng chẳng hề buồn.
Gã chỉ là một người bình thường, có một trái tim bình thường, muốn sống một cuộc sống bình thường với quá khứ bình thường.
Có điều, gã vẫn là một kẻ bất phàm.
Một kẻ bất phàm thì không thể sống cuộc đời bình phàm cả một đời.
Cuộc phân tranh của Lạc Dương tứ công tử, cuối cùng cũng giống như lửa đỏ trong lò làm nước trong ấm trào ra.
Gã cũng buộc phải xuất kiếm.
Sau đó gã gặp một người mà gã thiên tư vạn niệm, song cũng là người mà gã không muốn gặp nhất.
Nhan Tịch.
Ấm đồng phát ra những tiếng rít của nước sôi.
Phương Tà Chân cảm thấy đầu váng mắt hoa, vành tai hãy còn hơi tê tê.
Một “ngôi sao” nhỏ sượt qua vành tai gã đã khiến gã cơ hồ mất mạng.
Sống không phải là một chuyện khoái lạc, nhưng chết cũng không phải vậy. Đối với Phương Tà Chân, khoái lạc chính là hồng phấn trong quá khứ của gã: Nhan Tịch, còn bình lặng chính là tri âm trong hiện tại của gã: Tích Tích.
Gã không cho rằng bản thân có tương lai.
Thế nhưng giờ gã đột nhiên thấy quá khứ tiến gần đến hiện tại.
Bởi gã nhìn thấy một lệ ảnh lướt qua cửa sổ.
Một nhân ảnh nhỏ nhắn.
Người đứng trước cửa phòng, một a hoàn đẩy cửa cho nàng. Một tiếng “két” đơn điệu nhạt nhẽo mà vô kinh vô hỉ vang lên. Dưới ánh sáng của buổi bình minh, xuất hiện một người dễ giận dễ vui, một khuôn mặt chợt vui chợt giận.
Chính là khuôn mặt ấy, đã khiến người ta phải tiêu hồn thất phách.
Chính là con người ấy, đã khiến gã mất đi bản thân.
Khi gã nhìn thấy khuôn mặt ấy, chuyện đầu tiên nghĩ đến chính là lửa.
Biển lửa.
Phương Linh thảm tử trên hàng rào trúc.
Phương lão gia chết trong chảo nước sôi.
Đám cháy hủy thi diệt tích.
Người khổng lồ giống như một cây thần mộc sét đánh không chết.
Nhan Tịch thấy gã ngồi dậy, trên mặt lộ vẻ mừng rỡ:
– Chàng tỉnh rồi?
Trên tay tỳ nữ bưng một chiếc khay gỗ màu đen khảm vàng, bên trên đặt một chiếc bát sứ hoa xanh, trong bát bốc lên mùi thuốc thơm ngát. Thần sắc Nhan Tịch vô cùng vui vẻ, nhưng trong mắt lại ẩn ước một vài tia đỏ, hiển nhiên là cả đêm qua nàng chưa được nghỉ ngơi.
Phương Tà Chân vừa mở miệng đã hỏi:
– Gia gia của ta đâu?
Nhan Tịch ngây người, tựa hồ như hạ một quyết tâm cực lớn, nhìn gã lắc đầu.
Phương Tà Chân lại lạnh lùng hỏi tiếp:
– Tiểu đệ của ta đâu?
Nhan Tịch lại cắn môi lắc đầu lần nữa.
Phương Tà Chân trầm mặc một hồi lâu, rồi hỏi tiếp:
– Hồi Vạn Lôi đâu?
Nhan Tịch nói:
– Trọng thương, được người ta cứu đi rồi.
Phương Tà Chân không nói gì nữa.
Gã chống tay xuống giường, ngồi thẳng lưng dậy. Vầng thái dương còn chưa lên, ánh sáng bình minh yếu ớt nhợt nhạt và vô lực. Vẻ ngoài của gã giờ tuyệt không giống một hiệp khách kiếm xuất nhân vong, mà chỉ giống một tên thư sinh văn nhược với đôi bàn tay trắng.
Một gã thư sinh nhợt nhạt, yếu ớt.
Một hồi lâu sau Phương Tà Chân mới lại lên tiếng:
– Kiếm của ta đâu?
Nhan Tịch không nhịn được đưa tay ra đặt lên chiếc khăn xanh quấn trên cổ tay gã.
Sau đó nàng như tỉnh lại, khẽ vuốt nhẹ chiếc khăn rồi thu tay về.
– Vết thương của chàng chưa khỏi hẳn, chàng không thể đi.
Phương Tà Chân nhắc lại câu hỏi:
– Kiếm của ta đâu?
Nhan Tịch thở dài một tiếng:
– Tính khí của chàng vẫn như trước.
Phương Tà Chân đứng dậy. Nhan Tịch kinh ngạc nói:
– Chàng muốn làm gì?
Phương Tà Chân lãnh đạm đáp:
– Không có kiếm, ta cũng có thể đi vậy.
Nhan Tịch hỏi:
– Chàng muốn đi đâu? Làm gì?
Phương Tà Chân đáp:
– Báo cừu.
Nhan Tịch hỏi:
– Chàng có thể không đi được không?
Phương Tà Chân đột nhiên có chút kích động:
– Nếu phụ thân nàng vô cớ thảm tử, đệ đệ cũng bị người ta sát hại, nàng có thể không đi báo cừu được không?
Nhan Tịch không thể trả lời câu hỏi này.
Bởi vì đáp áp quá rõ ràng.
Phương Tà Chân cũng không đợi nàng trả lời, quay người bước ra cửa.
Nhan Tịch hỏi:
– Chàng định tìm ai báo cừu?
– Tất cả những kẻ nào có liên quan đến âm mưu này, tất kẻ những kẻ nào tham gia sát hại gia gia và đệ đệ của ta.
– Nhưng… chàng chỉ có một mình, độc thương lại chưa khỏi, muốn đến Diệu Thủ đường khác nào đi nạp mạng?
– “Ai nói bây giờ ta muốn đến Diệu Thủ đường?” – Phương Tà Chân thốt – “Một người muốn báo cừu một cách chân chính, có thể đợi được một năm, cũng có thể đợi mười năm, đợi đến khi có cơ hội tốt nhất, đợi đến lúc thích đáng nhất mới ra tay. Một người nếu như chỉ muốn gấp rút sát tử cừu nhân, đó không phải là báo cừu, mà là tiết hận”.
Gã ngừng lại giây lát rồi nói tiếp:
– Huồng hồ, Hồi Vạn Lôi xuất hiện ở đó không nhất định hắn là kẻ sát nhân.
Nhan Tịch đã hơi yên tâm, đến giờ Phương Tà Chân vẫn còn giữ được lý trí sáng suốt. Nếu đổi là nàng, tự vấn cũng chưa chắc có thể làm được.
– Vậy thì… chàng định đi đâu?
– Tương Tư lâm.
– Du gia?
– Tiểu Bích Hồ.
– Tại sao?
– “Gia gia đã chết rồi, tiểu đệ cũng bị liên lụy” – Phương Tà Chân thốt – “Ta còn một vị bằng hữu, giờ rất có thể y đang phải quyết chiến sinh tử ở Tương Tư đình, hiểm nguy trùng trùng, ta không muốn mất luôn cả y nữa”.
Nhan Tịch kinh ngạc hỏi:
– Chàng muốn nói Truy Mệnh?
Phương Tà Chân đã bước ra đến cửa, hai cánh cửa vẫn chưa đóng lại. Bên ngoài là hành lang, hồ sen u nhã như tranh, trong lòng gã không khỏi dậy lên một nõi đau âm thầm. Tưởng tất những năm gần đây, nàng ở đây cũng coi như là thiên thượng nhân gian rồi. Những mỹ cảnh nhã các này đại khái đều do một tay nàng bày bố cả? Còn gã thì sao? Ngay cả lão phụ và tiểu đệ, hai người cùng ăn với gã một mâm cơm, uống chung với gã một hồ nước đều đã gặp phải độc thủ!
Có thể thấy trên đời này thật sự có may mắn và bất hạnh.
Nếu như ngày đó nàng không rời khỏi gã thì liệu có cục diện ngày hôm nay không?
Trong lòng Phương Tà Chân bất giác như bị ngọn lửa hờn ghen và tức giận thiêu đốt. Gã đứng lặng người không trả lời câu hỏi của Nhan Tịch.
Nhan Tịch lại nói tiếp:
– Lạc Dương tứ công tử dùng thiên phương bách kế, tiền tài phú quý, uy bức dụ dỗ chàng đều không chịu gia nhập với họ. Thế nhưng, chàng với Truy Mệnh bất quá chỉ gặp nhau có một lần, chàng rõ ràng biết y là đối tượng mà bọn Thất Phát thiền sư, Sái Tuyền Chung, Đoạn Mi Thạch không thể không diệt trừ, vậy mà vẫn vì y mà bán mạng! Chàng….!
Phương Tà Chân nhạt nhẽo hỏi:
– Ta làm sao?
Nhan Tịch nói:
– Chàng không hề thay đổi… vẫn là cái tính cách đó!
– “Câu này vừa nãy nàng đã nói rồi. Ta phong lưu thành tính, không thể an định, không cầu danh tiếng, cô phương tự thưởng…” – Phương Tà Chân thốt – “Không sai, ta vẫn như xưa. Ta vẫn làm những chuyện ngốc nghếch vì người khác, chỉ cần ta cam tâm tình nguyện thì không tiếc gì tấm thân nhiệt huyết… Những tính xấu đã khiến năm xưa nàng rời bỏ ta, đến giờ một chút ta cũng không sửa đổi được”.
Nhan Tịch nhìn gã, nhìn gã, nhìn gã một hồi lâu sau mới nói:
– Chàng thật sự cho rằng ta rời bỏ chàng là vì lý do đó sao?
Phương Tà Chân đưa tay lên vuốt vuốt vành tay, ngẩng đầu nhìn sắc trời:
– Ta không biết, ta phải đi đây.
Nhan Tịch nói:
– Sao chàng không mặc thêm tấm áo dài rồi hãy đi!
Phương Tà Chân nhìn theo hướng nàng chỉ tay, chỉ thấy trên chiếc giá để sát tường có treo một tấm bạch y. Gã nhìn thấy bạch y, bất giác chợt nhớ đến rất nhiều chuyện khi gã và nàng còn ở bên nhau, cảm thấy vô cùng quái lạ: lão gia và tiểu đệ vừa bị người ta sát hại, gã làm sao vẫn có thể nhớ đến những ràng buộc của ngày xưa, những chuyện tình ái của quá khứ được chứ?
Khi gã cầm tấm bạch y lên mới phát hiện bên dưới là một thanh kiếm.
Diệt Hồn Kiếm.
Gã cầm kiếm lên, phảng phất như đón người yêu đã ly tán từ lâu trở về vòng tay của mình vậy.
Điều lạ là vào lúc này, gã đột nhiên nghĩ đến Tích Tích.
Khi gã đi ra đến cửa thì đột nhiên dừng bước, lên tiếng hỏi:
– Nàng thật sự muốn ta gia nhập Lan Đình Trì gia?
– Không!
Đáp án này dường như ngoài ý liệu của Phương Tà Chân:
– Tại sao?
– “Bởi vì đây đích thực là vùng đất thị phi, hơn nữa còn là một cạm bẫy khổng lồ. Ai rơi vào cũng tự cho rằng mình đang bày bố thiên la địa võng, kỳ thực đã trở thành kẻ trong lưới từ lúc nào cũng chẳng biết” – Nhan Tịch nói – “Nơi này không hợp với chàng. Những người ở đây đều điên hết cả rồi, không điên thì không thể nào đứng vững ở đây được. Trừ phi là chàng điên mới muốn tiến vào”.
Phương Tà Chân quan sát nàng:
– Tại sao lúc đầu nàng lại muốn ta gia nhập? Còn đích thân đến Đại Ẩn sơn để du thuyết?
– Bởi vì ta không biết đó là chàng.
– Nhưng sau khi nàng biết đó là ta, vẫn muốn ta ở lại trợ lực cho Trì gia của nàng.
– Khi vừa nhìn thấy chàng, ta… ta không thể khống chế được bản thân, muốn lưu giữ chàng lại… Giờ ta đã bình tĩnh, ta hiểu được sự lựa chọn của chàng là đúng.
– Lựa chọn của ta? Lựa chọn cái gì?
– Tránh xa thị phi, rời khỏi Lạc Dương.
– Ta lựa chọn rồi sao? Thế sự có để cho ta lựa chọn không?
Phương Tà Chân nói:
– Được, nếu như ta còn đượ clựa chọn, ta sẽ lựa chọn điều mà nàng cảm thấy ta không nên lựa chọn. Ta sẽ ở lại.
– “Chàng…” – Nhan Tịch giận đến xanh mặt – “Sao chàng phải… như vậy có đáng không?”
– “Coi như ta đã trúng phải kế khích tướng của nàng rồi. Khi nàng muốn ta lưu lại, ta không lưu. Khi nàng không muốn ta lưu lại, ta lại lưu” – Phương Tà Chân thốt – “Giống như năm xưa nàng đối xử với ta vậy”.
– “Chàng không thể lưu lại” – Nhan Tịch run giọng nói – “Chàng lưu lại làm gì?”
– “Trước đêm hôm qua, ta không thể lưu lại, là vì sợ liên lụy đến lão gia, tiểu đệ và Tích Tích…” – Phương Tà Chân đáp – “Hiện giờ lão gia đã chết rồi, tiểu đệ cũng chết rồi, ta phải lưu lại báo cừu cho họ, hơn nữa còn quyết không để Tích Tích phải gặp cảnh ngộ như họ”.
– “Nàng nhớ kỹ…” – Phương Tà Chân cười dài bước ra cửa, để lại Nhan Tịch một mình trong căn phòng rộng – “Ta lưu lại không phải là vì nàng”.
Gã vừa cười vừa bước ra hành lang, đắc ý phi phàm.
Chỉ có người đối diện mới có thể nhận ra vẻ thống khổ vô biên trên gương mặt tuấn tú của gã.
*****
Lúc này chỉ mới là sáng sớm, Trì Nhật Mộ đang ngồi trong một căn phòng đặc biệt, tinh thần đặc biệt sảng khoái.
Không ai có thể nhận y rằng cả đêm qua y không hề nghỉ ngơi.
Y đang tập trung tinh thần quan sát một đồ vật.
Thứ đồ vật ấy y không cầm trên tay mà dùng một chiếc kẹp nhỏ bằng kim loại kẹp giữ, trên tay còn đeo một chiếc bao tay ba lớp bằng da bò.
Còn nói đây là một căn phòng đặc biệt, đó là bởi vì nơi đây treo đầy đủ chủng đủ loại, các thức các dạng binh khí khác nhau.
Có thứ thường thấy, cũng có thứ ít gặp, thậm chí có cả những thứ căn bản chưa từng xuất hiện trên giang hồ, có thứ hãy còn trong giai đoạn thử nghiệm, vẫn còn chưa xuất thế.
Có thứ được treo trên tường, có thứ được bày trên giá. Những binh khí này thứ cần cũng có, thứ không cần cũng có, có thứ dài, có thứ ngắn, có mềm, có cứng. Cả loại độc môn binh khí như là Lưu Kim Phượng Xí Đường cũng chiếm một chỗ trên giá, thứ tuyệt môn binh khí như là Tử Mẫu Ly Hồn Khuyên cũng được treo trên tường. Thậm chí ở đây còn có thể tìm được cả Lôi Hỏa đạn của Phích Lịch đường ở Giang Nam, kỳ môn ám khí Trung Thu Nguyệt Lý Tiểu Vũ của cao thủ Đường môn Đường Nguyệt Lượng. Nơi đây còn có cả những thứ vũ khí không phải vũ khí, bao gồm thiết tiêu, dây lụa, giá nến… những thứ “vũ khí” này, e rằng dù là Phương Tà Chân cũng không biết dùng thế nào.
Bất quá, chỉ cần là người giang hồ có chút đam mê với võ thuật bước vào gian phòng này, tất sẽ bị những binh khí nhiều vô số kể mà tuyệt đối khó tìm này nhϊếp hồn.
Muốn thu thập được số binh khí đặc thù của các môn các phái này, rốt cuộc đã phải tốn bao nhiêu thời gian, bao nhiêu tinh lực, bao nhiêu tâm huyết, bao nhiêu tiền bạc? E rằng muốn tính toán cũng không phải chuyện dễ.
Chỗ ngồi của Trì Nhật Mộ đối diện với cửa sổ.
Chỗ ngồi này cũng được bày bố vô cùng đặc biệt, vô luận là thời gian nào trong ngày, chỉ cần có mặt trăng hoặc mặt trời, ánh sáng đều có thể chiếu rọi đến đây được.
Hiện giờ ánh sáng buổi bình minh hãy còn yếu ớt, vì vậy cả tám cây nến lớn trên thư án đều được đốt lên, ánh sáng của lửa nến làm cho khuôn mặt Trì Nhật Mộ trở nên vàng vọt.
Y đang hết sức tập trung tinh thần quan sát thứ đồ vật nhỏ bé trên chiếc kẹp sắt, dưới ánh sáng của nến và ánh dương quang yếu ớt, thứ đồ vật ấy thỉnh thoảng lại phát ra những tia sáng lạnh ghê người.
Y quan sát một cách hết sức chuyên tâm, đến nỗi khi Phương Tà Chân bước vào, y tựa hồ một chút không hay biết.
Phương Tà Chân đứng sau lưng y một hồi lâu, sau cùng mới lên tiếng:
– Ngươi có biết là từ nãy đến giờ ta có thể gϊếŧ ngươi mấy lần rồi không?
Trì Nhật Mộ không hề ngạc nhiên, cũng chẳng quay đầu lại nói:
– Ta biết.
Phương Tà Chân im lặng giây lát, chắp tay nhìn những binh khí được treo trên tường:
– Ta cũng biết, nếu như không được sự cho phép của đại công tử, nhị công tử thì không ai được phép bước vào Binh Khí phòng nửa bước.
– “Không sai. Đích thực nơi đây có mai phục, lúc bình thường đương nhiên không để lộ ra ngoài. Có điều, Phương thiếu hiệp là ngoại lệ” – Trì Nhật Mộ nói – “Ta đã truyền lệnh xuống, ở trong Lan Đình Trì gia, chỉ cần là thiếu hiệp thích, thì muốn đi đâu, làm gì cũng đều có thể được”.
Phương Tà Chân trầm mặc.
Trì Nhật Mộ chợt hỏi:
– Vết thương của thiếu hiệp thế nào?
Phương Tà Chân không đáp, mà hỏi lại:
– Tại sao lại cứu ta?
Trì Nhật Mộ không trả lời mà chỉ nói:
– Thất Phát đại sư cũng tốn một chút công phu.
Phương Tà Chân thốt:
– Tưởng tất là do ngươi ra lệnh cho y làm.
– “Thất Phát đại sư là thượng tân của ta, ta chỉ có thể yêu cầu, không ra lệnh cho y được” – Trì Nhật Mộ nói – “Huống hồ, tẩu tẩu đối với thiếu hiệp thập phần quan thiết, ta làm sao có thể không toàn lực bảo toàn một tuyệt thế nhân tài như thiếu hiệp đây được?”
Y mỉm cười rồi nói tiếp:
– Nếu như không bảo toàn nổi, đó là bất hạnh của Trì gia, là sự xấu hổ của Trì Nhật Mộ ta.
Phương Tà Chân chỉ hỏi:
– Thất Phát thiền sư đâu rồi?
Trì Nhật Mộ đáp:
– Ông ta đã ra ngoài.
Phương Tà Chân trở nên khẩn trương:
– Đi đâu?
– Tiểu Bích Hồ, Du gia, Tương Tư đình trong Tương Tư lâm.
– Đi bao lâu rồi?
Phương Tà Chân gấp giọng hỏi.
– Ông ta đi cách đây chưa đầy nửa tuần trà, Phương thiếu hiệp xin cứ yên tâm. Nếu ở Tương Tư lâm có thiết yến, vậy thì hồng môn yến còn chưa khai tiệc đâu, nếu là một trận chiến, vậy thì chiến cục cũng chưa bắt đầu…
Trì Nhật Mộ chợt thay đổi chủ đề:
– Phương thiếu hiệp có biết ta đang quan sát thứ gì không?
Phương Tà Chân không hỏi.
Gã biết Trì Nhật Mộ nhất định sẽ nói tiếp.
Trì Nhật Mộ quả nhiên là nói tiếp.
– “Phi tinh” – Y chắt lưỡi nói – “Mộng lý phi tinh”.
Phương Tà Chân khẽ chau mày.
Gã không hiểu Trì Nhật Mộ đang nói gì.
Nhưng gã biết một khi Trì Nhật Mộ đã nói vậy, chắc chắn là có nguyên cớ.
Trì nhị công tử này, xem ra còn khó đối phó hơn rất nhiều so với những kẻ khó đối phó mà gã đã gặp qua.
– “Ám khí” – Trì Nhật Mộ thở dài – “Thứ ám khí đã sượt qua vành tai thiếu hiệp đêm qua”.
– “Ta chưa từng thấy qua thứ ám khí nào lại tinh xảo, nhỏ bé, mà đáng sợ, vừa đẹp vừa độc đến dường này” – Hai mắt Trì Nhật Mộ sáng rực – “Gần như một đóa phi tinh thoáng hiện trong giấc mộng”.