- 🏠 Home
- Kiếm Hiệp
- Phương Tà Chân Cố Sự: Sát Sở
- Chương 11: Tam Bất Sát
Phương Tà Chân Cố Sự: Sát Sở
Chương 11: Tam Bất Sát
Phương Tà Chân động dung:
– Thạch Đoạn Mi?
Cố Phật Ảnh đáp:
– Chính là Đoạn Mi Đa Thạch Lão Yêu.
Y trầm giọng xuống:
– Lão yêu đáng sợ nhất trên giang hồ mấy năm gần đây.
Phương Tà Chân thốt:
– Trong võ lâm có rất nhiều người thích xưng tự hiệu, thích làm đại ca, lão đại, còn có đại đại ca, đại ca đại, ca đại đại, đại ca đại đại, nhưng nghe nói Thạch Đoạn Mi lại tuyệt không cho người khác gọi y là đại ca, tự mình lại luôn xưng là lão yêu, nhưng trong giang hồ không ai biết rằng cái vị “yêu ca” này mới là đại ca trong các đại ca, lão đại trong các lão đại.
Gã thở dài một hơi:
– Tại sao người ta cứ thích làm lão đại? Kỳ thực, làm lão đại có gì tốt đâu? Xem ra thì rất oai phong, có đặc quyền, có thể hô phong hoán vũ, cao hơn người khác một bậc, nhưng thực tế thì chẳng triệt để hơn ai được điều gì, phong hiểm lại nhiều hơn so với người bình thường gấp bội, mà chết cũng nhanh hơn người khác mấy lần.
Cố Phật Ảnh cười ôn hòa:
– Ai ai cũng như vậy cả, chúng ta nên gọi đó là thiên tính, đã là thiên tính thì vô phương thay đổi được nó.
Phương Tà Chân thốt:
– Thạch Đoạn Mi thích sát nhân, đó cũng là thiên tính, không thể thay đổi được.
Cố Phật Ảnh nói:
– Thủ đoạn gϊếŧ người của Thạch Đoạn Mi trước giờ vô cùng khủng bố, nhưng y còn có “tam bất sát”, so với chuyện gϊếŧ người của y còn hữu danh hơn mấy phần.
Phương Tà Chân nhướng mày:
– Người này trước giờ sát nhân thành tính, vậy mà cũng có “tam bất sát” sao?
– “Có! Tại sao lại không thể có?” – Cố Phật Ảnh đáp – “Thứ nhất, một người đang ở trong tình trạng bình thường, y không gϊếŧ. Thứ hai, một người mà những thống khổ người này phải chịu đựng chưa làm y vừa ý, y không gϊếŧ. Thứ ba, phàm là những nữ tử bị y cưỡиɠ ɧϊếp, y cũng không gϊếŧ”.
Cố Phật Ảnh nói một câu “không gϊếŧ”, sắc mặt Phương Tà Chân lại trầm xuống một chút, nói đến lần thứ ba thì Tích Tích đứng bên cạnh cũng không nhịn được, thở dài một tiếng não nuột, bởi nàng biết Phương Tà Chân đã thực sự động nộ.
Cố Phật Ảnh lại nói tiếp:
– Cái không gϊếŧ thứ nhất của y, là do y thích ám toán người khác. Cái không gϊếŧ thứ hai, là vì y thích nhìn thấy người ta phải chịu mọi thống khổ đau đớn rồi mới được chết. Cái không gϊếŧ thứ ba, là do y muốn những nữ tử đó phải sống để chịu khổ, phải sống để hận y, phải sống để cầu mong được chết.
Nói đến đây, y khẽ xoa xoa hai tay vào nhau, biểu thị vẻ bất nhẫn:
– Kỳ dư, bất kể là đàn ông hay phụ nữ, trẻ em sơ sinh hay người già tóc bạc, nhất loạt y đều gϊếŧ hết.
Phương Tà Chân chau mày:
– Y là người do bên nào mời đến?
– Diệu Thủ đường Hồi gia.
Cố Phật Ảnh mỉm cười:
– Cái tên Hồi gia này thật khó gọi. Người người đều cho rằng là chữ “hồi gia” trong “hồi gia” (về nhà) mà không biết nó là Hồi gia trong Hồi gia (nhà họ Hồi).
Thái độ của y giống như đột nhiên nhớ ra điều gì đó:
– Độc tử của Hồi gia tên gọi Hồi Tuyệt. Vị tiểu thiếu gia thường nhật vô ác bất tác này vốn được xem là người kế thừa hương hỏa của Diệu Thủ đường, nhưng vừa nãy hắn đã chết dưới tay thiếu hiệp.
Phương Tà Chân nhạt nhẽo nói:
– Không sao cả, dù sao thì tại hạ cũng dự định rời khỏi Lạc Dương.
Cố Phật Ảnh ngạc nhiên:
– Phương thiếu hiệp định đi đâu?
Phương Tà Chân đáp:
– Còn chưa quyết định.
Cố Phật Ảnh hỏi:
– Trong thành đang náo nhiệt như vậy, lẽ nào thiếu hiệp không muốn lưu lại xem xong vở kịch này rồi mới đi?
Phương Tà Chân đáp:
– Tại hạ không thích náo nhiệt, bởi vì trong náo nhiệt đa phần đều có phiền phức thị phi.
Cố Phật Ảnh nói:
– Đáng tiếc là ở đâu có người sống, thì ở đó có phiền phức thị phi.
Phương Tà Chân thốt:
– Nhưng những phiền phức và thị phi ở trong Lạc Dương thành này đặc biệt nhiều.
Cố Phật Ảnh nói:
– Chính vì vậy mà ba người bọn họ mới cùng đến Lạc Dương một lượt.
Phương Tà Chân thoáng ngạc nhiên:
– Ba người?
Cố Phật Ảnh nói:
– Ba người!
Phương Tà Chân hỏi:
– Còn một người nữa là ai?
Cố Phật Ảnh đáp:
– Không biết.
Phương Tà Chân kinh hãi.
Vừa nãy khi gã nghe đến tên Thất Phát thiền sư, chỉ thấy cảnh giác. Nghe thấy Đoạn Mi Lão Yêu cũng đến, cũng chỉ hơi động dung, nhưng chưa hề kinh hãi.
Đến khi nghe thấy Cố Phật Ảnh nói hai chữ “không biết”, gã mới có chút kinh hãi.
Một người ngay cả “Cố Phán Thần Phong” Cố Phật Ảnh cũng không biết nhưng lại đặc biệt đề cập đến, rốt cuộc là thần thánh phương nào?
Phương Tà Chân chau mày:
– Y không có tên?
Cố Phật Ảnh lập tức đáp:
– Có.
Y lại nói tiếp:
– Hiện tại người này đang ở trong Hòa Thắng khách sạn, lầu hai, phòng chữ Dần. Trong cuốn sổ ghi tên của khách sạn thì tên của y là Sái Tuyền Chung.
Cố Phật Ảnh đi thăm dò tên tuổi của người này, vậy mà chỉ có thể từ trong cuốn sổ của khách sạn mới biết được ba chữ “Sái Tuyền Chung”, có thể thấy chân danh thực tính của người này tưởng tất là chưa điều tra được.
Phương Tà Chân khẽ nhíu mày:
– Sái Tuyền Chung?
Mục quang Cố Phật Ảnh sáng lên:
– Thế nào?
Phương Tà Chân đáp:
– Chưa từng nghe qua.
Cố Phật Ảnh nói:
– Ta cũng vậy.
Phương Tà Chân hỏi:
– Y có đặc trưng gì không?
Cố Phật Ảnh đáp:
– Thanh niên nhân, trên má có nốt ruồi.
Phương Tà Chân cười khổ.
Trên thế gian này thanh niên nhân quả thật không ít, gần như là cứ ba người thì lại có một thanh niên nhân. Còn về nốt ruồi trên má, cũng không phải là chuyện gì kỳ lạ, đại đa số người đều có một hai nốt ruồi trên mặt, cố nhiên, cũng có thể có cả vết sẹo hoặc vết nám, song đây cũng chẳng phải chuyện lạ gì.
Ngay cả điểm này mà Cố Phật Ảnh cũng liệt vào “đặc trưng” hiển nhiên là vì y không tìm được “đặc trưng” chân chính của người này.
Một người không có đặc trưng thì cũng không dễ tìm thấy được khuyết điểm của y.
Cùng một lý lẽ như vậy, một người đã thành danh, đối phó tương đối dễ, bởi vì đối với y mà nói, tính mạng của y quý giá hơn người khác, hoặc giả cứ cho là y có thể không cần tính mạng, song y tuyệt đối hoặc gần như tuyệt đối không thể không cần sĩ diện.
Người chưa thành danh thì không như vậy.
Bọn họ có thể cùng lúc không cần mạng, cũng không cần sĩ diện.
Do vậy, những kiếm khách đã thành danh sợ nhất là phải giao thủ những thích khách vô danh, bởi vì kiếm khách đã thành danh không thể bại, còn thích khách vô danh lại chỉ cầu đắc thủ.
Phương Tà Chân cảm thấy được sự xâm thực của ba chữ “Sái Tuyền Chung”, thậm chí còn cảm thấy “con người này” càng lúc càng tiến gần bản thân, sức ép càng lúc càng nặng.
Vì thế gã liền hỏi:
– Y sử binh khí gì?
Cố Phật Ảnh đáp ngắn gọn:
– Kiếm.
Phương Tà Chân lại hỏi:
– Kiếm gì?
Cố Phật Ảnh đáp:
– Trường kiếm dài chín thước bảy thốn.
Phương Tà Chân cả kinh:
– Kiếm dài như vậy ư?
Cố Phật Ảnh nói:
– Vì vậy khi động kiếm thập phần bất tiện, người y muốn gϊếŧ bắt buộc phải ở bên ngoài mười thước, bằng không chỉ cần để đối phương đến sát bên cạnh, y liền khó mà hồi kiếm tự bảo vệ.
Phương Tà Chân lẩm bẩm:
– Thông thường kiếm dài như vậy đã không phải là kiếm nữa rồi, mà là thương, là mâu hoặc kích… trừ phi… trừ phi…
Cố Phật Ảnh gần như vểnh hẳn tai lên:
– Trừ phi cái gì? Trừ phi cái gì?
Phương Tà Chân đáp:
– Tiên sinh còn nhớ hồi Tần Thủy Hoàng tại vị ba mươi sáu năm, vào năm thứ ba đã lệnh cho Lý Tư tụ hội năm vị chú kiếm đại sư đương thời đến Bắc Chi chọn đồng, luyện thành hai thanh kiếm, đặt tên là Định Tần, do đích thân thừa tướng Lý Tư khắc tiểu triện làm tiêu chí, biểu thị thiên hạ nhà Tần vĩnh định hay không?
Trên mặt Cố Phật Ảnh đã lộ vẻ kính phục:
– Phương thiếu hiệp quả học rộng hiểu nhiều. Hồi đó năm vị chú kiếm sư chỉ có thể chọn được một tảng tinh đồng mà vô phương luyện thành bảo kiếm, đành phải khổ cầu Bôn Lộc đại sư ở Bắc Lang Sơn xuất thủ luyện kiếm. Bôn Lộc đại sư vì tính mạng của thân tộc năm người nên đành phá lệ mở lò luyện kiếm. Nhưng sau khi luyện được nhị kiếm, mỗi thanh dài ba thước sáu thốn, Bôn Lộc đại sư tính toán khí số, thấy cần phải chọn thêm tinh đồng để luyện thanh kiếm thứ ba, kiếm dài hai thước sáu thốn, tam kiếm hợp nhất, thiên hạ từ nay mới có thể định. Sau đó, ngài còn lưu lại cuốn “Đại Hạn kiếm phổ”, hi vọng Tần thế tử có thể chuyên tâm luyện kiếm mà bớt ăn chơi sa đọa.
Phương Tà Chân gật đầu nói tiếp:
– Đại Hạn kiếm dài chín thước bảy thốn, chính là độ dài của tam kiếm hợp nhất, đáng tiếc là Tần Nhị Thế lại chỉ thích ăn chơi sa đọa, không ham thích luyện kiếm. Đồng thời, Lý Tư nghe thấy hai chữ “Đại Hạn”, cũng sợ làm Tần Vương động nộ nên vội dùng kế độc sát Bôn Lộc đại sư, vì vậy thế gian chỉ có Định Tần kiếm, chứ không có thanh kiếm thứ ba Đại Hạn kiếm nữa.
Cố Phật Ảnh nói:
– Bất quá, đại hạn của Tần Nhị Thế thật sự đã đến, một chút cũng không hàm hồ.
Phương Tà Chân thốt:
– Nhưng loại kiếm pháp này vẫn được truyền cho đời sau. Vịêt Vương Câu Tiễn đã từng chọn tinh đồng luyện thành bát kiếm, một trong số đó cũng dài chín thước bảy thốn, vừa hay sử dụng đúng bộ kiếm pháp này.
Cố Phật Ảnh nói:
– Việt Vương bát kiếm? Thiếu hiệp muốn nói là: Yểm Nhật, Đoạn Thủy, Chuyển Phách, Huyền Tiễn, Kinh Nghê, Diệt Hồn, Khước Tà, Chân Cương bát đại danh kiếm?
Phương Tà Chân mỉm cười nói:
– Đúng vậy. Cổ sử có ghi, Yểm Nhật xuất ra thì nhật quang cũng phải lu mờ, vì kim thuộc âm, âm thịnh tất dương diệt. Đoạn Thủy xuất ra, vạch xuống nước thì nước cũng phân ra không hợp lại được, Chuyển Phách xuất ra, dĩ chi chỉ nguyệt, ánh trăng thấy vậy cũng phải đảo chuyển. Huyền Tiễn xuất ra, phi điểu du trùng tiếp xúc với lưỡi kiếm đều rơi xuống lả tả.
Gã ngừng lại giây lát như để lấy hơi rồi lại nói tiếp:
– Còn Kinh nghê thần kiếm, dĩ chi phá hải, nghe nói kình ngư cũng phải kinh động. Diệt Hồn cũng là thần binh, nửa đêm dạ hành không sợ yêu mị. Khước Tà càng có công hiệu diệt tà khử ác hơn, yêu mị thấy nó đều phải khuất phục. Còn có một thanh Chân Cương kiếm nữa, chặt ngọc đoạn kim giống như gỗ mục, thổi tóc đoạn phát, chém sắt như bùn.
Cố Phật Ảnh khoanh tay lắng nghe.
Phương Tà Chân cười cười nói:
– Bất quá những điều này hầu hết đều là ngoa truyền, thậm chí thần thánh hóa lên mà thôi. Nếu như nói Yểm Nhật thần kiếm xuất ra thì ánh nhật quang phải lu mờ, có thể là do kiếm quang chói lóa, làm địch nhân mờ mắt mà, như vậy còn hợp tình hợp lý.
Nhưng Đoạn Thủy có thể phân thủy bất lưu, quả thật không khỏi quá khoa trương.
Cố Phật Ảnh hỏi:
– Vậy Phương thiếu hiệp cho rằng thanh kiếm nào có thể sử ra Đại Hạn kiếm pháp?
– “Kiếm dài chín thước bảy thốn, trừ Chuyển Phách ra thì còn có thanh kiếm nào đủ độ dài nữa?” – Phương Tà Chân nói – “Chuyển Phách thần kiếm, tương truyền khi dùng kiếm chỉ nguyệt, thì thiềm thố đảo chuyển, nhưng thiềm thố chính là chỉ chỗ tối trên mặt trăng, làm sao mà đảo chuyển được đây? Lời này quả không khỏi quá khoa trương. Có thể là do thanh kiếm này quá dài, nên mới cố ý nói vậy để hình dung hoặc giả để khiến cho người khác mơ hồi bất định”.
Cố Phật Ảnh chìm vào suy tư, lẩm bẩm nói:
– Đại Hạn kiếm phổ? Chuyển Phách thần kiếm?
Phương Tà Chân nói:
– Một người dùng một thanh kiếm như vậy hành tẩu trên giang hồ, không thể không có sự tích gì được!
Cố Phật Ảnh đáp:
– Có!
Phương Tà Chân “ồ” lên một tiếng.
Cố Phật Ảnh nói:
– Ba năm trước, ngoại tam đường Đường chủ của Đao Bính hội, Bất Tử Đồng Nhân Chủy Kim Ngưu Chủy lão thái gia chính là chết dưới thanh kiếm như vậy. Khi đó kẻ sát nhân lưu lại danh tánh, chỉ nói là Sái Chung.
Phương Tà Chân nói:
– Sái Chung?
Cố Phật Ảnh lại nói:
– Hai năm trước, đại đương gia của Phú Quý Chi Gia, Phi Chùy Kim Bát Tịch Thu Dã bày ra lôi đài, đại hội quần anh thắng liền hai mươi bảy trận, đang dương dương đắc ý thì bị một thiếu niên dùng một thanh trường kiếm đánh bại. Người của Tịch gia sau khi điều tra nhiều nơi mới biết thiếu niên này tên là Chung Sái Tuyền.
Phương Tà Chân chau mày:
– Chung Sái Tuyền?
– “Còn nữa” – Cố Phật Ảnh nói – “Một năm trước Hoang Sơn đạo nhân chết trên quan đạo Thiểm Tây, khi môn đồ của lão tìm đến thì lão chỉ còn một hơi thở yếu ớt. Đám môn đồ chỉ nghe được lão nói: “Trường kiếm! Trường kiếm dài hơn chín thước!”. Nói xong liền lập tức tuyệt khí. Xem ra cũng là do thiếu niên kiếm thủ kia làm”.
Phương Tà Chân gật đầu:
– Bất kỳ ai muốn gϊếŧ Lục Hợp Thanh Long Nhất Kiếm Kình Thiên Hoang Sơn đạo nhân cũng không phải chuyện dễ, càng huống hồ là khiến Hoang Sơn đạo nhân phải chết bởi kiếm, thứ mà lão sở trường nhất.
Cố Phật Ảnh lại nói:
– Ngoài ra, đại hiệp đời trước, Đại Mộng Thần Kiếm Cổ Tịch Triều từng bị một thiếu niên kiếm khách khiêu chiến, hai người lực đấu ba trăm chiêu bất phân thắng bại, về sau thiếu niên này chỉ lưu lại hai chữ: “Chung Sái”.
Phương Tà Chân lại chau mày:
– Chung Sái?
Cố Phật Ảnh nói:
– Những gì ta biết về người này bất quá chỉ có vậy. Mỗi năm mỗi tháng, trên giang hồ đều có chuyện các nhân vật võ lâm bị mất tích một cách thần bí, hoặc giả bị đánh bại song không dám nói ra, những chuyện này đều không thể không xét khảo đến.
Phương Tà Chân thốt:
– Có số tư liệu mà tiên sinh vừa nói thì chắc không sai đâu. Ít nhất chúng ta cũng có thể rút ra ba kết luận.
Cố Phật Ảnh nói:
– Mong thiếu hiệp chỉ giáo tận tường.
– “Cũng chẳng có gì” – Phương Tà Chân mỉm cười – “Thứ nhất, rất có khả năng kiếm pháp của y sử ra là Đại Hạn kiếm pháp. Thứ hai, rất có khả năng kiếm của y là Chuyển Phách thần kiếm. Thứ ba, đây là một kiếm khách vô danh, hơn nữa còn là nhất lưu cao thủ. Một vị tiền bối đời trước đã từng nói thế này: Cao thủ vô danh so với cao thủ hữu danh còn nguy hiểm gấp vạn lần”.
Cố Phật Ảnh nói:
– Hình như còn một kết luận nữa.
Phương Tà Chân hỏi:
– Thỉnh giáo.
Hai người bọn họ càng nói chuyện càng thấy tôn trọng đối phương hơn. Trong đời người, tài nhân không nhất định phải ghen ghét đố kị lẫn nhau, mà ngược lại, cần phải trân tiếc, tôn trọng nhau mới đúng. Nếu nhân tài đều không kính trọng nhân tài, vậy thì mình bảo người khác làm sao kính trọng nhân và tài của mình?
Cố Phật Ảnh nói:
– Không dám.
Y chầm rãi nói:
– Ta thấy, loại người này đến Lạc Dương nhất định là do có người thỉnh đến. Còn người đó là ai, hiện giờ hãy còn chưa rõ.
Phương Tà Chân gật đầu:
– Loại nhân tài này, nếu như gặp lúc thích hợp, ai cũng phải tranh đoạt lấy y. Để một nhân tài mai một lâu như vậy đúng là chuyện đáng buồn hết sức.
Cố Phật Ảnh cười cười nói:
– Cũng giống như thiếu hiệp vậy.
Phương Tà Chân không hề tiếp nhận chủ đề này của Cố Phật Ảnh, chỉ hỏi:
– Có lẽ còn một điểm có thể suy luận ra?
Cố Phật Ảnh chuyển động mục quang:
– Điểm nào?
Phương Tà Chân đáp:
– Tại sao người này lại chỉ thích dùng ba chữ đó để tự xưng: Sái? Tuyền? Chung? Nếu đã muốn ẩn giấu thân phận, tại sao y không tùy tiện nghĩ ra một cái tên khác? A Miêu, A Cẩu chẳng hạn? Tiểu Trùng Tiểu Ngưu cũng được? Thậm chí có thể gọi là Tuyền Phong, Chung Thái (trồng rau), tại sao cứ dùng ba chữ đó mới được?
Cố Phật Ảnh nói:
– Đúng, nhất định có nguyên cớ.
Phương Tà Chân đột nhiên nói:
– Nhưng bất kể nguyên cớ là gì, tại hạ đều không muốn biết.
Cố Phật Ảnh kinh ngạc:
– Thiếu hiệp vẫn muốn đi?
Phương Tà Chân đáp:
– Tại hạ vốn đã muốn rời khỏi đây.
Cố Phật Ảnh ngạc nhiên:
– Thiếu hiệp thực sự không quan tâm đến chuyện này?
Phương Tà Chân nhạt nhẽo đáp:
– Tại sao tại hạ phải quan tâm đến chuyện này?
Sau đó gã đưa mắt nhìn Cố Phật Ảnh, lạnh lùng nói:
– Tại sao tiên sinh phải nói những chuyện này với tại hạ?
– Bởi vì công tử cảm thấy bọn họ có thể liên quan đến thiếu hiệp.
Cố Phật Ảnh chậm rãi nói.
– Vì thế ta thấy cần phải nói với thiếu hiệp một tiếng.
Phương Tà Chân hoàn toàn không có ý cảm ơn gì:
– Đa tạ.
Có lúc, “đa tạ” cũng đồng nghĩa với “tái kiến”, thông thường, cũng có thể là câu nói kết thúc cho một cuộc nói chuyện.
– “Ngoài ra…” – Sắc diện Cố Phật Ảnh vẫn thân thiết và thành khẩn, biểu tình cũng thân thiết và thành khẩn, nhưng trong mắt đã thoáng hiện ra một tia nhìn giảo hoạt – “Ta còn tưởng rằng dù thiếu hiệp có không quan tâm đến bản thân cũng phải quan tâm đến bằng hữu của mình đấy…”
Y nói dứt lời liền cung thủ cáo từ, biểu thị muốn đi.:
– Bây giờ ta mới biết mình đã nhầm, làm phiền thiếu hiệp rồi! Cáo từ!
Phương Tà Chân nhìn y ra đến cửa, cuối cùng cũng nhịn không được, lên tiếng hỏi:
– Tiên sinh nói bằng hữu của tại hạ… là ai?
Cố Phật Ảnh vẫn bước đi, ngoảnh mặt ném lại một câu:
– Truy Mệnh!
- 🏠 Home
- Kiếm Hiệp
- Phương Tà Chân Cố Sự: Sát Sở
- Chương 11: Tam Bất Sát