Chương 7

Sau khi tắm xong, Thanh La giúp ta chải tóc.

“Tại sao hôm nay nương nương lại giúp Thẩm đại cô nương?” ta nhìn đôi bàn tay đã rửa sạch sẽ, từ từ nắm lại, “với nàng ta mà nói thì mọi chuyện vẫn chưa xong đâu. Hôm nay nàng ta đột nhiên xuất hiện, thành hay bại còn phải xem ý trời”.

“Nương nương yên tâm, không lưu lại dấu tích, thái tử điện hạ sẽ không điều tra được gì. Có điều, không ngờ Thẩm Uyển Hoa lại vô dụng như vậy, hấp tấp vội vàng. Khó cho nương nương, vì sợ cô ta làm hỏng việc mà phải làm bẩn tay mình”

“Rửa sạch là được rồi”

“Việc thái tử điện hạ hôm nay tới Quan Trúc Các, có cần nô tỳ dọn dẹp sạch sẽ?”

Nhớ tới chuyện xảy ra ở Quan Trúc Các ngày hôm nay, ta bỗng thấy vừa nực cười, vừa hoàng đường. Ta không thể không ngẫm lại, Quách Thuấn Minh đã trưởng thành, hắn không chỉ là đồng minh, mà còn là nam nhân, ta đã sơ ý.

“Không cần, hắn sẽ xử lý gọn ghẽ, không cần chúng ta nhúng tay”

Thái tử vẫn chưa định thái tử phi, đại cô nương phủ Võ Định Bá bước vào Đông Cung làm lương đệ, thành Biện Kinh trong nháy mắt trở nên rộn rã.

Số lần mẫu thân đưa Thiệu Như Quý tới điện Ngọc Đường cũng nhiều lên, lúc nhắc tới Thẩm Mạn Hoa, nàng ta luôn bày ra dàng vẻ đích thê bàn luận về thϊếp thất, như thể mình là nữ chủ nhân tương lai của Đông Cung vậy.

Ta lười phí lời với bọn họ, mỗi khi nhắc tới chuyện thái tử phi, ta chỉ nói đôi câu rồi gạt sang chuyện khác.

Ban đầu chỉ định gieo một hạt giống trong lòng Quách Cù, không ngờ Thẩm Uyển Hoa hoàn thành nhiệm vụ bằng một cách ngoài dự đoán, lại thêm việc Thẩm Mạn Hoa xen ngang. Lúc này, không có cách nào chuyển hướng sự chú ý của bệ hạ tốt hơn việc nữ tử Thẩm gia bước chân vào Đông Cung cả.

Ngày Thẩm Mạn Hoa vào Đông Cung được ấn định vào mùng năm tháng năm, tuy chỉ là nạp một lương đệ, nhưng trong cung vẫn rất bận rộn, kẻ ra người vào nườm nượp, Quách Thuấn Minh cũng không còn truyền tin tới nữa, nhờ việc của Thẩm gia mà Quách Cù càng đối xử dịu dàng với ta, ta miễn cưỡng đáp lại lấy lệ.

Ta ở lỳ trong điện Ngọc Đường, vừa đọc thoại bản vừa chơi với Tư Di, lúc có hứng thì xử lý cung vụ, thi thoảng lại ứng phó với phụ mẫu, những ngày này là khoảng thời gian nhàn rỗi hiếm hoi kể từ khi ta bước chân vào hậu cung.

Hôm đó, lúc ta đang đọc tới đoạn nhân vật chính trừng trị kẻ ác, Thanh La vội vã bước tới.

“Nương nương, vừa rồi điện Hằng Thất truyền chỉ, bệ hạ ban hôn cho tứ công tử Tề Ninh Hầu với quận chúa, e rằng lúc này, thánh chỉ đã tới Thiệu phủ rồi”

Ta đặt thoại bản lên chiếc bàn nhỏ, “Điện Hằng Thất có ai khác không?”

“Thái tử điện hạ và Chương tứ công tử đều có mặt”

“Bản cung biết rồi. Ngươi tới thái y viện mời Tuần thái y tới, nói bản cung đột nhiên thấy không khỏe”, tay nắm lấy chuỗi vòng đỏ tươi trên cổ tay trái, “bản cung bệnh nặng cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, từ hôm nay trở đi, điện Ngọc Đường đóng cửa không tiếp khách”

Tay xoa lên vết đỏ nổi lên trên cổ, ta biết chỉ một lát nữa cổ họng mình sẽ sưng tấy, cánh tay nổi đầy ban đỏ, đây là bí mật mà ngay cả mẫu thân cũng không biết.

Ta chỉ cần ngồi yên tại nơi này, chờ đợi màn kịch hay sắp bắt đầu.

Thanh La nói hôn sự của Thiệu Như Quý và Chương Bỉnh Thính được định vào đầu xuân năm sau, đất Thục xa xôi, vì lo lắng khí hậu ngày tết có nhiều thay đổi, đường đi nguy hiểm nên lễ đội sẽ xuất phát vào tháng mười năm nay, đưa Thiệu Như Quý tới đất Thục, sống ở biệt quán, chờ tới ngày làm lễ.

Bệnh của ta đã tái phát nhiều lần, Quách Cù hạ lệnh không cho phép người nào tới quấy rầy ta nghỉ ngơi, các cung phi muốn tới thăm hỏi hay ngay cả mẫu thân và người của Thiệu gia cũng đều bị cản lại bên ngoài điện Ngọc Đường.

Quách Thuấn Minh cũng phái người tới hỏi thăm bệnh tình của ta, nhưng đều là Thanh La tiếp đón, ta không ra mặt.

Ngoài việc cơ thể ngứa ngáy ra, ta lại có khoảng thời gian an nhàn, thoải mái quan sát cục diện trong kinh thành.

Tháng sáu, mưa gió bão bùng, thời tiết mát mẻ, ta đổ bệnh đã hơn hai tháng. Sắp tới mùa hè, trời mưa mãi không thôi, lá chuối bên dưới cửa sổ bị mưa gió bẻ cong, ta đẩy cánh cửa sổ cho mùi thuốc nồng nặc trong phòng tản bớt.

“Bệnh của nương nương vừa khỏi, sao lại đứng trước cửa sổ? Nếu nhiễm lạnh thì phải làm sao?”

Ta ôm chặt chiếc áo khoác mỏng mà Thanh La khoác cho, “Trời sắp nóng lên rồi, trong cung cũng sẽ náo nhiệt lên đây”.

Sau cơn mưa trời lại sáng, ta nói muốn tới ngự hoa viên đi dạo, chỉ dẫn theo Thanh La và Họa Ảnh. Lúc đi qua đình nghỉ chân, thấy một nữ tử áo xanh đang pha trà, tiến lại gần nhìn, đó quả nhiên là một mỹ nhân.

Nữ tử đó thấy ta bước vào đình, lập tức đứng lên hành lễ.

Ta bưng tách trà vừa pha trước mặt lên khẽ ngửi, hương trà phảng phất, “trà Mao Tiêm Tín Dương này trong cung khó kiếm, khoảng thời gian bản cung bị bệnh, nghe nói bệ hạ mới sắc phong một vị Đào mỹ nhân, vô cùng sủng ái, hôm nay bản cung có lộc hưởng rồi”.

“Nương nương nhầm rồi, thần thϊếp là con cháu tội thần, không dám trông mong ngóng thiên ân”

Ta phất tay cho các tỳ nữ lui đi, đặt tách trà xuống, “sao muội phải mạo hiểm như vậy, sau khi ta khỏi bệnh, tự khắc có cách đưa muội tới bên mình chăm sóc”.

Nụ cười trên môi muội ấy không đổi, đẩy đĩa điểm tâm tới trước mặt ta, “tâm ý của nương nương Cảnh Thù hiểu, hiện nay nương nương lao tâm khổ tứ vì Thiệu gia, Cảnh Thù không muốn nương nương phải bận lòng giúp Cảnh Thù mưu tính, Cảnh Thù vô năng, chỉ có gương mặt này là còn chỗ hữu dụng”.

“Ta đã hứa với trưởng tỷ và Đào Cảnh Hoằng nhất định sẽ chăm sóc cho các ngươi…”

“Lạc An tỷ tỷ”, nụ cười của muội ấy biến mất, “sau khi các tỷ muội và tiểu bối trong nhà bị đưa tới Dịch U Đình, chỉ có muội và Kỳ Hi sống sót, tỷ tỷ đã giúp bọn muội quá nhiều. Đây chung quy vẫn là chuyện của Đào gia, tỷ tỷ đừng nhúng tay quá sâu, tránh liên lụy tới mình và nhị hoàng tử”.

Ta cười lạnh một tiếng, “Đào Cảnh Thù, nếu ban đầu ta đã giúp thì cũng đã nghĩ tới hậu quả rồi, không cần ngươi lo lắng thay ta”.

“Đợi chuyện này kết thúc, nam nhi trong thiên hạ tùy muội chọn lựa, sao muội không nghĩ xa hơn!”

Vành mắt muội ấy đong đầy nước mắt, hít sâu một hơi, “người mà muội muốn sẽ không tới nữa rồi”.

Ta im lặng một lúc, đợi cho muội ấy khôi phục lại cảm xúc mới lên tiếng: “Tới ngày hội săn bắn mùa thu vào đầu tháng mười, ta sẽ phái người thu xếp ổn thỏa, để muội và Kỳ Hi gặp mặt Kỳ Uyên”.

Thấy ánh mắt muội ấy lóe lên, ta chỉ nói: “Bệ hạ tính tình đa nghi, nếu nhắc tới chuyện của Đào gia, muội không cần che giấu cảm xúc, làm như vậy hắn mới yên tâm. Có điều, muội cần nắm chắc chừng mực”.

Đào Cảnh Thù gật đầu, ta đang định dặn dò thêm vài câu thì tỳ nữ thân cận của muội ấy tới thông báo, nói Quách Cù truyền muội ấy tới cùng dùng bữa tối.

“Đi đi, nếu như có chuyện, phái người tới tìm Thanh La”.

Thấy bóng lưng xa dần của muội ấy, ta nhớ lại ngày mà trưởng tỷ kết hôn. Ta đứng bên cạnh mẫu thân, nhìn tỷ ấy rời khỏi cổng, bước qua thềm cửa, tân nương tử không được quay đầu, ta chỉ có thể nhìn thấy tua rua trên chiếc khăn phủ đầu lắc lư qua lại.

Mẫu thân nói trưởng tỷ chỉ gả tới Đào gia, hai nhà cách không xa, có thể thường xuyên tới thăm hỏi. Ta rất vui, bởi vì Đào Cảnh Hoằng có một tên tùy tùng nhỏ sưu tập đủ loại đồ chơi rất thú vị, còn có vị muội muội nhỏ tuổi Cảnh Thù, luôn ngoan ngoãn nghe bọn ta sai bảo.

Ta không cần phải đối mặt với tổ phụ và phụ thân, không cần phải học tập các nghi lễ cung đình, cũng không cần phải bày ra dáng vẻ tiểu thư khuê các của Thiệu gia.

Những niềm vui và tiếng cười ngày thơ ấu đó vẫn in sâu trong lòng ta, dù bị những mưu toan quấn lấy, nhưng vẫn không phai mờ.

Ta lại một lần nữa bước vào điện Thanh Huy, trong điện bày sẵn băng giám, Quách Thuấn Minh đang đứng trước một bức tranh cổ, quay lưng lại với ta.

“Đổ bệnh đã nhiều tháng, ta vẫn chưa kịp chúc mừng điện hạ”

“Cô có điều gì đáng chúc mừng sao?”

“Thẩm lương đệ dịu dàng lại lương thiện, chúc mừng điện hạ có được giai nhân”

“Không phải thứ ta muốn, cũng chẳng phải thứ ta cần, có gì để chúc mừng?”

“Thẩm gia chỉ nghĩ tới cái lợi trước mắt, lẽ nào không phải thứ mà điện hạ muốn thấy ư?”

Hắn đột nhiên quay người, ánh mắt sáng quắc, ta né tránh khỏi ánh nhìn đó, “Khai Phong năm thứ bốn mươi bốn, cũng là một ngày hè như hôm nay, bản cung đứng bên ngoài điện Thanh Huy chờ đón điện hạ ra đời cùng bệ hạ. Lúc đó bản cung chưa đầy mười bốn, hoàng hậu Ý Đức gọi ta tới nhìn điện hạ vừa sinh, các cung nữ đều nói điện hạ rất giống bệ hạ, bản cung khi đó nhìn không ra giống ở đâu. Tới ngày nay, điện hạ càng ngày càng giống bệ hạ rồi”.

“Quý phi nói những chuyện xưa cũ này để làm gì, con người cần hướng về phía trước. Quý phi có biết, bức họa này vẽ gì không?”

Bức cổ họa như miêu tả quang cảnh thịnh vượng của kinh thành, trong bức tranh, các nhân vật tí hon được vẽ rất sinh động, “điện hạ chí lớn, lòng mang thiên hạ”.

Khóe miệng hắn khẽ nhếch, “bức họa này khắc họa khung cảnh thịnh vượng của Trường An những năm Vĩnh Huy, Đường Cao Tông tại vị, biên cương thái bình, bách tính an cư như thời Trinh Quán, Cô cho rằng Võ hậu có công rất lớn”.

Ta áp chế cơn sóng dậy trong lòng, chỉ cười nói: “Đường Thái Tông có hoàng hậu Trưởng Tôn, bệ hạ có hoàng hậu Ý Đức. Xem ra, thái tử phi mà điện hạ muốn cũng phải là người đức hạnh, Vu tứ cô nương và điện hạ là thanh mai trúc mã, nổi tiếng hiền lương, cũng là thái tử phi mà bệ hạ vừa ý. Điện hạ lòng ôm hoài bão lớn, thái tử phi nhất định cũng sẽ là hiền thê...”

Ta còn chưa nói hết, Quách Thuấn Minh bỗng tóm chặt lấy cổ tay ta, “Cô đồng ý với quý phi, thành toàn cho Thiệu Như Quý và Chương Bỉnh Thính, giờ đây Cô đã làm được. Vậy quý phi sẽ thành toàn cho Cô thế nào?”

Hắn nắm quá chặt khiến tay ta đau, ta muốn giãy ra nhưng không được, “điện hạ là người thông tuệ, cái gì đúng cái gì sai, điện hạ nên hiểu rõ mới phải”.

“Cô không cần hiểu”

“Điện hạ! Ta là kế mẫu của người!”

Nô tài xung quanh đều đã bị đuổi ra, trong lòng ta căm phẫn cùng cực, quả nhiên là đứa con ngoan mà Quách Cù nuôi dạy ra, lễ nghĩa liêm sỉ đều vứt bỏ.

Ta rút trâm trên búi tóc đâm vào cánh tay Quách Thuấn Minh. Trâm đâm vào da thịt, Quách Thuấn Minh bị đau phải buông tay ta ra. Ta không màng tới mái tóc đang xõa tung của mình, đội mũ lên rồi vội vã rời đi.

Ra khỏi đông cung, thấy búi tóc ta xõa ra ra, trâm cài cũng biến mất, Thanh La muốn nói gì đó nhưng trông thấy sắc mặt ta lại thôi.

“Không trở về điện Ngọc Đường vội, cùng ta tới điện Tiêu Phòng đã”

Từ Đông Cung tới điện Tiêu Phòng phải đi qua một rừng cây mộc liên, các bông hoa đang đua nhau khoe sắc, nhìn từ xa trông giống như tuyết trắng phủ kín trên cành. Trong rừng xuất hiện một bóng người. Dưới ánh trăng, bộ áo giáp trên người hắn phản chiếu ánh sáng bạc.

“Nô tài bái kiến cô nương”

“Hôm nay Kỷ tướng quân gác đêm sao? Vất vả cho Kỷ tướng quân rồi”

“Đông Cung là nơi rối rắm, cô nương ít qua lại sẽ tốt hơn”.

Thấy ánh mắt vẫn như xưa của hắn, ta nhớ lại chuyện vừa xảy ra, cơn tức giận không biết từ đâu bỗng nổi lên, “tại sao ngươi lại trở về!”

“Sau khi bệ hạ đăng cơ, thuộc hạ ở Bắc Mạc nghe nói Đào gia bị...”

“Ngươi đã không còn là gia nô của Thiệu gia, cũng không phải hộ vệ của ta nữa!”

“Cô nương...”

“Ra trận gϊếŧ địch là tâm nguyện từ nhỏ của ngươi, ta đã giúp ngươi thành toàn”

“Vậy nên thuộc hạ tới Biện kinh để thực hiện tâm nguyện của cô nương”

“Ngươi không nên dẫm chân vào vũng bùn này, ân tình của tằng tổ phụ, ngươi đã trả hết từ lâu rồi”

“Thuộc hạ không phải vì báo ân, mà chỉ làm theo trái tim mách bảo”

Hắn lấy ra một chiếc kẹp tóc bằng vàng từ trong tay áo, “cô nương được sắc phong quý phi, thuộc hạ vẫn chưa tặng quà mừng”.

Trong lòng ta có muôn vàn cảm xúc, vành mắt bỗng cay cay, “ta từng hứa với ngươi, nếu ngày sau ta trở thành hoàng hậu, nhất định sẽ khiến bệ hạ phong ngươi làm đại tướng quân, nhưng ta lại thất tín”.

“Cô nương sao phải tự trách, trong lòng thuộc hạ, cô nương là người tốt nhất thiên hạ này”

Ta ổn định lại cảm xúc, “trong triều không ai biết chuyện cũ của ngươi và Thiệu gia, hiện nay ngươi là cận thần của bệ hạ, cách xa Thiệu gia, cách xa ta càng xa càng tốt. Nếu có cơ hội hãy trở về Bắc Mạc”.

“Cô nương...”

“Ngươi nên sống một đời tự do vui vẻ ở Bắc Mạc, chứ không nên lưu lại thành Biện Kinh đầy âm mưu nghi kỵ này”

Những ngày tháng ta sống ở đây, không có pháo hoa như ở Bình Dương, cũng chẳng có bình minh như ở Bắc Mạc. Chim nhạn bay khắp tứ phía trên trời, chẳng mang theo nổi những hoài niệm và lý tưởng được tích lũy qua nhiều thế hệ ở nơi đây. Trăng sáng vằng vặc, cũng không soi tới được những năm tháng mệt mỏi của Thiệu Lạc An.