Cảm giác chính mình tự tay mất đi một vật gì, đương nhiên không chua xót bằng bị người khác lạnh lùng cướp lấy. Giá như lúc đó sau khi kiểm tra, Phạm Công Bân nói đôi bao tay này hoàn toàn bình thường, có lẽ bây giờ Nguyên Ninh nàng không đau đớn đến thế.
Ngoài kia gió đông đã thôi lãnh đạm, mấy nhánh cây xơ xác chỉ mới đâm ra vài cành chồi màu tía, trơ trọi bật lên giữa đám tuyết hãy còn chưa tan. Có bóng ai thấp thoáng sau đám cây đen nhẻm, điệu bộ gấp gáp giống như là đang cố gắng bước nhanh đến nơi, trước khi nắng chiều sắp dần tắt dạng.
Nguyên Ninh lạnh lùng chớp mắt rồi cao giọng cất tiếng, nói vọng đến cái người đang hối hả đằng trước: “Hồng Ngọc đấy à?”
Hồng Ngọc được gọi tên thì quay đầu nhìn lại, cô ta trông thấy Nguyên Ninh, theo đó mà bất giác có chút ngượng ngập: “Thánh Tư Phu nhân có gì căn dặn nô tỳ ạ?”
Nguyên Ninh cong môi cười: “Ta làm gì có thể căn dặn được ngươi? Thuần Nghi Phu nhân mới là người có thể sai bảo ngươi!”
Nguyên Ninh lướt mắt dò xét gương mặt có chút bối rối của Hồng Ngọc, nhoẻn miệng cười để hàm răng trắng như sương ngọc lộ ra trước gió: “Đừng hiểu nhầm ý của ta, chỉ là ta thấy ngươi trên tay đang có kinh văn và hoa đăng, Thuần Nghi Phu nhân xem bộ là đang sai ngươi đến Thái miếu à?”
Hồng Ngọc cúi đầu “dạ” một tiếng. Nguyên Ninh tiến đến gần nàng ta hơn, đưa tay cầm lấy một tờ kinh văn mà lạnh giọng: “Thuần Nghi Phu nhân đúng là một mẫu thân tốt, hài tử ở suối vàng biết nàng ta thương nhớ đến nó như thế, chắc chắn sẽ cảm động đến rơi lệ!”
Nàng nói đến đó thì ngừng lại một nhịp, lặng lẽ để tờ kinh văn kia vào chiếc giỏ tre trên tay Hồng Ngọc: “Có điều bây giờ ở đó không chỉ có một mình hài tử của nàng ta cô đơn lạnh lẽo, hài tử của ta cũng đã ở đó với nó. Thuần Nghi Phu nhân đối với chuyện này, e là trong lòng cũng có chút vui sướиɠ!”
Hồng Ngọc sợ đến tái mặt, liền liên tục xua tay nói: “Phu nhân nói gì thế ạ, chủ nhân của nô tỳ đối với chuyện này làm sao mà vui được?”
Nguyên Ninh gật gù nói: “Cũng phải, nàng ta đối với hài tử của mình yêu thương đến thế. Đối với hài tử của người khác xem bộ cũng dụng tâm không ít. Nhớ lại ngày đó trong trời đông giá lạnh, Thuần Nghi Phu nhân đã không ngại tuyết rơi đường trơn, cùng với ngươi mang đôi hồ mao thủ sáo này cho ta!”
Nàng nói xong liền thở ra một hơi lạnh lẽo: “Tiếc là hài tử này của ta không có diễm phúc nhìn thấy cõi trần này. Hôm nay ta cũng mang kinh văn và hoa đăng đến Thái miếu, vậy thì chúng ta cùng đi vậy.”
Hồng Ngọc trong lòng dẫu khó xử, nhưng cũng đành bất đắc dĩ phải gật đầu thuận ý. Cô ta lặng lẽ nép sang một bên, nhường đường cho Nguyên Ninh và Tố Liên bước trước một bước. Ba người bọn họ theo đó mà cất gót rời đi, con đường từ hậu cung đến Thái miếu dẫu chẳng còn xa, thế mà chẳng hiểu tại sao thời gian lúc này giống như đang ngưng đọng. Hồng Ngọc đưa tay lên trước ngực mà ngước nhìn ánh hoàng hôn đã mờ ảo. Đâu đó có thanh âm của hàn phong thoảng qua mấy chiếc cửa sổ thông gió bên tường, khiến cảnh trời vốn đã tịch mịch càng trở nên quạnh hiu đến đáng sợ.
Bất giác đằng trước có tiếng gì đó thật thê lương. Thanh âm ấy kéo dài dai dẳng, càng ngày càng tiến lại gần theo tiếng bước chân rụt rè của Hồng Ngọc. Nguyên Ninh thở ra một hơi run rẩy mà gấp gáp hỏi Tố Liên: “Muội nghe rồi chứ? Muội đã nghe rồi chứ?”
Hồng Ngọc vốn đang sợ hãi, trông thấy thần sắc bất ổn của Nguyên Ninh mà càng trở nên chấn kinh. Nàng ta nhanh nhẹn bước lên, tiến sát về phía chủ tớ hai nàng mà âm thầm phòng bị. Chỉ nghe Tố Liên nhẹ giọng trấn an: “Chủ nhân, không phải đâu ạ!”
Nguyên Ninh xua tay: “Không phải cái gì mà không phải! Đó chính là tiếng khóc của hài tử mà ta ngày nhớ đêm mong!”
Hồng Ngọc hít vào một hơi lo sợ, đưa tai nghe ngóng thì càng đinh ninh thanh âm phát ra kia quả thực là tiếng khóc của hài tử. Sắc trời vào lúc giao nhau giữa ngày và đêm này, làm mọi thứ càng trở nên huyễn hoặc. Có lẽ khi thanh âm này phát ra vào lúc trời tối, thì chắc hẳn cũng không đáng sợ như thế. Bởi lẽ lúc đó hai bên đường còn có mấy ngọn dạ đăng soi sáng. Còn giữa thời khắc này, khi màn đêm hãy còn chưa bao trùm, mà ánh tà dương thì như tim đèn sắp tàn lụi, tiếng khóc của hài tử kia thực sự rất đáng sợ!
Tố Liên gấp gáp cầm lấy tay Nguyên Ninh mà tiếp tục trấn an: “Không phải đâu chủ nhân, đó chỉ là tiếng của miêu tử!”
Hồng Ngọc ngưng thần nghe kĩ lại một lần nữa. Đúng thật, thanh âm này thì ra chỉ là tiếng kêu của mèo con. Thế nhưng sự đáng sợ vẫn không vì thế mà giảm đi phần nào, trái lại dường như càng lúc càng trở nên mị hoặc. Nguyên Ninh thấp thỏm nói: “Mấy ngày qua ta vẫn nằm mơ thấy hài tử của ta chơi cùng một con bạch miêu. Bộ dạng của nó vô cùng tội nghiệp, giống như là bị người khác nhẫn tâm hại chết!”
Nguyên Ninh nói xong câu đó thì im lặng, mặc cho thanh âm của gió lạnh lẽo phát ra giữa trời đông, trêu ngươi một kẻ đang sợ hãi ở đó. Giữa lúc Hồng Ngọc đang kinh hồn bạt vía, chỉ nghe tiếng bước chân chậm rãi của Tố Liên, từng bước từng bước tiến đến mấy bụi sơn tùng đằng trước.
“Từ xưa đến giờ giấc mơ vốn là điềm báo! Chủ nhân xem, ở đây là hai con tiểu bạch miêu. Có lẽ mẫu thân của chúng đã bỏ mạng, nên lúc này chỉ có một mình bọn chúng bơ vơ tại đây”
Nguyên Ninh chau mày nói: “Đúng thật là đáng thương! Trời đông lạnh lẽo, hai con tiểu bạch miêu này bị bỏ rơi ở đây chắc chắn sẽ chết cóng! Chúng ta hãy hành thiện một chút, mang chúng đem về viện cưu mang vậy!”
Tố Liên lặng lẽ gật đầu, sau đó dường như sực nhớ ra chuyện gì, liền liếc mắt về phía Hồng Ngọc chau mày nói: “Nghe nói tiểu miêu tử rất yếu ớt, nếu để bọn chúng tiếp xúc với hơi tay người quá lâu sẽ không tốt. Thuần Nghi Phu nhân trước giờ thích nuôi mấy loài vật này, Hồng Ngọc tỷ tỷ hầu hạ ở Trúc Hoa Viện, chắc chắn là biết cách bồng bế tiểu miêu tử sao cho đúng. Hay là tỷ giúp ta một tay, đem hai con tiểu miêu tử này bỏ vào chiếc giỏ trên tay của ta được không?”
Chợt thấy Hồng Ngọc có chút bối rối, giống như là không ưng thuận. Nguyên Ninh thấy thế, liền gật gù nói: “Đúng vậy! Ngày trước có lần ta đến Trúc Hoa Viện, nhìn thấy Hồng Ngọc chăm sóc tiểu miêu rất chu đáo.”
Nguyên Ninh nói đến đó thì lặng lẽ tháo đôi bao tay bằng lông cáo đang đeo ra, hướng về phía Hồng Ngọc mà đưa đến: “Để tránh miêu tử tiếp xúc với hơi tay, Hồng Ngọc ngươi hay là đeo tạm đôi thủ sáo này mà bồng bế chúng vậy”
Tố Liên lo âu nói: “Chủ nhân không sợ lạnh hay sao ạ?”
Nguyên Ninh mỉm cười: “Không sao, ống tay áo hồ cừu này của ta rất dài, ta có thể rút tay vào đó mà tránh lạnh. Huống hồ gì chỉ đưa cho Hồng Ngọc đeo một lát, cũng không có gì đáng phải lo!”
Tố Liên liền gật gù nói: “Hồ mao này so với miêu mao thì ấm áp hơn nhiều, hai con tiểu miêu này được nằm trong đó là phúc phần của chúng!”
Nguyên Ninh mỉm cười, hướng đến Hồng Ngọc mà nhắc lại: “Cầm lấy đi!”
Hồng Ngọc đưa mắt nhìn đôi bao tay kia mà chẳng dám mang vào, chỉ biết xua tay nói: “Thủ sáo quý giá như thế, nô tỳ làm sao có gan mà mang vào cơ chứ! Hơn nữa hai con tiểu miêu này là hoang miêu, chủ nhân không sợ bọn chúng làm bẩn thủ sáo của người hay sao?”
Nguyên Ninh cười sâu xa: “Ngươi là đang sợ đám hoang miêu này làm bẩn thủ sáo của ta, hay là thực chất không dám đeo nó vào?”
Hồng Ngọc thấp giọng: “Nô tỳ thấp kém, làm sao xứng với đôi thủ sáo của chủ nhân ạ!”
Ánh mắt
lộ ra một tia hàn khí, Nguyên Ninh băng lãnh từ từ nói: “Có điều hai con tiểu miêu kia vẫn đang chịu lạnh, nếu không lấy đôi thủ sáo này bồng bế chúng thì còn cách nào không?”
Hồng Ngọc đưa mắt nghĩ ngợi, lúc này chỉ thấy có chiếc khăn tay bên hông mình là có thể dùng đến, bất đắc dĩ phải đành nói: “Nô tỳ sẽ dùng khăn tay để đem chúng về đây ạ!”
Nguyên Ninh mỉm cười: “Thế thì làm phiền ngươi vậy!”
Hồng Ngọc theo đó mà cẩn thận đem hai con tiểu miêu về chiếc giỏ bên tay của Tố Liên. Hai con tiểu miêu được chui vào nơi ấm áp, rốt cuộc cũng bắt đầu ngừng kêu la. Hồng Ngọc ngước mắt nhìn lên, chợt thấy cảnh trời cũng đã tối mịt. Có vài cung nữ lặng lẽ đi thắp dạ đăng hai bên đường, Nguyên Ninh mỉm cười nhìn các nàng ấy chùng chân thi lễ với mình, rồi hướng về phía Hồng Ngọc mà khẽ nói: “Nhìn ngươi có vẻ hoảng sợ lắm, trên trán dường như còn đang lấm tấm mồ hôi!”
Hồng Ngọc gượng cười: “Nô tỳ đột nhiên cảm thấy không khoẻ trong người!”
Nguyên Ninh tỏ vẻ quan tâm nói: “Vậy sao? Thế thì ngươi có đến Thái miếu được không?”
Hồng Ngọc cúi đầu đáp: “Dạ được ạ! Có lẽ nô tỳ chỉ nhiễm một chút phong hàn thôi!”
Nguyên Ninh cong môi cười: “Được rồi, vậy thì chúng ta hãy mau đến Thái miếu! Chỗ đó so với nơi này ấm áp hơn nhiều!”
Ba người bọn họ theo đó mà bước đi, Tố Liên lặng lẽ quay đầu nhìn về phía mấy cung nữ đi thắp dạ đăng, cuối đuôi miệng dường như lộ ra một nét cười.
Thái miếu đúng thật là ấm áp, mấy ngọn Phật đăng lúc này trầm tĩnh lung linh, không hề bị lay động bởi hàn phong đang than oán bên ngoài mấy lớp cửa. Nguyên Ninh nhìn xấp kinh văn đang lụi tàn trong ánh lửa, những đoá hoa quang ở đó dần trở nên mờ ảo, bởi lẽ trong mi mắt của nàng đang rưng rưng dòng lệ. Có một vị ni cô trầm tĩnh bước đến, bà ta trông thấy cảnh tượng trước mắt, liền lặng lẽ bái một vái dài. Nguyên Ninh lau nước mắt mà từ từ ngẩng mặt lên, cũng hướng về bà ta trả một bái tạ rồi nhẹ giọng nói: “Lại được diện kiến sư thái rồi!”
Vị ni cô ở đó dịu dàng mà ôn hoà: “Chủ nhân đối với hài tử đúng thật là có lòng!”
Nguyên Ninh cố nở một nụ cười, lặng lẽ khẽ nói: “Lần trước có duyên trò chuyện cùng sư thái, người nói trên đời này phàm là việc gì thì cũng có nhân quả báo ứng! Ta đã trở về nghĩ ngợi rất nhiều, cũng chẳng thể nhớ ra bản thân rốt cuộc đã tạo ra nghiệp hoạ gì, mà bây giờ phải đổi lại bằng sự bi thảm của hài tử. Chẳng lẽ nhân quả báo ứng lại có lúc nhầm lẫn hay sao?”
Vị ni cô kia lẳng lặng hít vào một hơi dài, trầm tư nhắm mắt mà nói: “Nhân quả có "Tam thời báo”, đó là hiện báo, sinh báo và hậu báo. Cái gọi là hiện báo, chính là kiếp này làm ra những gì thì ngay tại kiếp này nhận lại phúc báo tương ứng. Cái gọi là sinh báo, chính là phúc báo ở kiếp này nhận lấy là do bản thân ở kiếp trước tạo nên. Cái gọi là hậu báo, chính là phúc báo ở kiếp sau tuỳ thuộc vào những việc chúng ta tạo ra tại kiếp này. Điều lành nghiệp dữ cuối cùng rồi cũng sẽ có ngày ứng báo, chỉ khác nhau ở chỗ nhanh chậm ra sao mà thôi!”
Nguyên Ninh có chút u mê: “Sư thái thông tuệ, có thể chỉ điểm cho ta phải làm thế nào để tiêu trừ nghiệp hoạ hay không?”
Vị ni cô kia thở dài: “A di đà Phật! Bần ni có lẽ còn chưa thoát khỏi mê muội mà dứt trừ nghiệp hoạ của mình, như thế thì làm gì có thể chỉ điểm cho người khác. Có điều đời người đâu đâu cũng là bể khổ, chỉ cần trong dạ nhớ đến câu này là được. Ác nghiệp cũng bởi ta, mà thiện lành cũng bởi ta. Thanh tịnh hay sa đoạ là do ta, chỉ có một mình ta mới có thể quyết định được! Người có thể cứu được ta, cũng chỉ là bản thân của ta mà thôi!”
Vị ni cô nói xong câu đó thì rời đi, bà ta đi được vài bước thì quay đầu nhìn lại Nguyên Ninh, trong ánh mắt dường như có một tia kỳ vọng: “Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn!”
Nguyên Ninh lấy lại câu đó đọc thầm trong miệng, tuy nhỏ nhưng đủ lớn để Hồng Ngọc đang ngồi đối diện vẫn có thể nghe. Chỉ thấy bất giác trong ánh mắt của cô ta có vài phần tư lự, nhưng vì tàn lửa trong thau đồng bất chợt nảy lên, sự đau đớn bên tay khiến ánh suy tư kia của Hồng Ngọc cũng theo đó mà mất dạng.
Ba người bọn họ sau khi đốt kinh văn và thắp đèn thì cũng quay trở về Ngoạn Hoa Cung. Đường đi lúc này đã sáng toả ánh dạ đăng, duy chỉ có luồng hàn phong xung quanh là không ngừng thổi. Giữa lúc mấy ngọn nến trong dạ đăng ở hai bên đường đang run rẩy, chợt nghe thanh âm của Tố Liên từ từ cất lên: “Lần trước chủ nhân được vị sư thái kia chỉ điểm, biết rằng Địa Tạng Vương là vị Bồ Tát phổ độ chúng sinh dưới địa ngục. Đặc biệt là đối với hài tử yểu mệnh, Bồ Tát sẽ xuất hiện để an ủi và giúp đỡ bọn chúng tạo công đức để đầu thai. Mấy hôm nay người đều đến miếu Địa Tạng để cầu siêu, trong giấc mơ cũng đã không còn gặp hài tử khóc lóc khổ sở!”
Nguyên Ninh lặng lẽ gật đầu: “Đúng vậy, có điều con bạch miêu trong giấc mơ của ta vẫn ủ dột, hay là hôm nào chúng ta lại đến miếu Địa Tạng để cầu siêu cho nó!”
Tố Liên cúi đầu “dạ” một tiếng, chỉ thấy Hồng Ngọc dường như có một chút suy nghĩ trong lòng. Lại nghe đột nhiên Tố Liên hốt hoảng nói: “Lạ thật, hai con tiểu miêu tử khi nãy đâu rồi?”
Nguyên Ninh tò mò nói: “Muội nhắc ta mới nhớ, lúc nãy khi bước chân vào Thái miếu ta đã không còn nghe thanh âm của chúng!”
Tố Liên nghi hoặc nói: “Chiếc giỏ này rất cao, bọn chúng vốn không thể bò ra ngoài được, có lẽ nào…”
Nguyên Ninh xua tay nói: “Đừng nói chuyện vớ vẩn!”
Bất chợt có kình phong nổi lên, làm người ta lạnh lẽo đến nỗi sởn gai ốc. Giữa lúc ánh dạ đăng đang không ngừng lay động, đâu đó lại có tiếng mèo con phát ra thật thê lương thảm thiết.
Nguyên Ninh đưa tay nắm lấy Tố Liên, thấp giọng mà hoang mang nói: “Lại là tiếng của đôi miêu tử ấy!”
Tố Liên lo sợ nói: “Bọn chúng đều là bạch miêu, so với con bạch miêu trong giấc mơ của chủ nhân có khi nào có mối liên hệ!”
Nguyên Ninh nhanh miệng nói: “Xem chừng là thế, nếu vậy thì chúng ta mau về viện thôi, chuyện cầu siêu cho con bạch miêu kia nhất định phải sớm ngày thực hiện!”
Tố Liên liền đáp: “Nhưng mà chúng ta không biết gì về con bạch miêu đó, muốn cầu siêu cho nó thì ít ra chúng ta phải biết sinh thời nó có tích gốc thế nào!”
Nguyên Ninh gật gù trả lời: “Ngày mai chúng ta đi dò la tin tức, xem xem trong cung có con bạch miêu nào bị chết oan uổng hay không! Có điều chúng ta dẫu sao cũng là người ngoài. Nếu chính chủ nhân của nó thành tâm cầu siêu thì có lẽ con bạch miêu này sẽ sớm ngày được chuyển kiếp!”
Nguyên Ninh nói xong câu đó thì cũng nắm lấy tay của Tố Liên gấp gáp rời đi, nhưng mà Hồng Ngọc lại quá kinh hãi mà đứng như trời trồng tại đó. Nguyên Ninh ngoảnh mặt lại, đắc ý mà thúc giục: “Hồng Ngọc, mau đi thôi!”