Toàn bộ hòa thượng trong chùa Thanh Sơn đều rất hoảng sợ, các sự huynh và sư điệt đều vây quanh cô, liên tục giải thích với cô rằng họ tuyệt đối sẽ không bao giờ xua đuổi cô, hơn nữa còn lập nên lời thề son sắt, bảo đảm họ chẳng sợ cô chút nào.
“Đệ tử của Phật môn, lẽ nào lại sợ yêu ma quỷ quái? Tiểu sư muội, cô cũng đừng nên sợ.” Sư huynh Thanh Minh, người ở đằng sau phụ trách công việc bếp núc vuốt đầu cô, nói như vậy với cô.
Cô với vẻ mặt non nớt ngơ ngác nhìn sư huynh ấy, hỏi: “Các huynh sẽ không đuổi muội đi sao?”
Sư huynh Thanh Minh cười: “Chùa Thanh Sơn là nhà của muội, không ai có quyền đuổi muội ra khỏi nhà cả.”
Đây là lần đầu tiên, cô có một nơi để gọi là nhà, một nơi mà cô sẽ không bị xua đuổi.
Ngoài ra còn có một nhóm người xem nhau như người trong một gia đình.
Họ đối với cô đơn thuần chỉ là tò mò về điều “đặc biệt” đó của cô, ngoài ra không một chút chán ghét hay sợ hãi, thậm chí dù chỉ là điều nhỏ nhất họ cũng không có gì khiến cho cô có cảm giác rằng cô không giống họ.
Cô cứ thế mà lớn lên trong môi trường như vậy, từ từ học cách coi mình như một người bình thường, và cũng từ từ học cách sống chung với những ký ức, cảm xúc không thuộc về cô, nhưng trái lại nó luôn tồn tại trong tâm trí cô.
Nghĩ đến chùa Thanh Sơn, khóe miệng của Trường Tuế không khỏi nở nụ cười tươi rói.
Cô đã trải qua vô số tháng ngày yên bình nhưng rất hạnh phúc ở nơi đó, cho dù cô có đi đâu đi chăng nữa thì trong trái tim cô vẫn luôn có một nơi để cô luôn hướng về đó là chùa Thanh Sơn.
Chỉ có điều khi cô bị tra tấn bởi những cảm xúc đau đớn và tuyệt vọng đó, thì cô cũng chưa bao giờ nghĩ rằng, một ngày nào đó những điều này sẽ trở thành công cụ cho cô sử dụng.
Cô đột nhiên giơ tay lên, nhìn vào đường chỉ sinh mệnh ngắn ngủi và mờ nhạt trong lòng bàn tay của mình mà chỉ có cô và Khương Tô mới nhìn thấy được, khi nào đường chỉ sinh mệnh này biến mất cũng là lúc mạng sống của cô kết thúc.
Ánh mắt của Trường Tuế trở nên tối sầm, lòng bàn tay cô nắm chặt lại.
Cô cần phải tích góp đủ công đức trước tuổi hai mươi.
Thời gian còn lại dành cho cô cũng không còn nhiều.
Khi bà Tần từ chùa Thanh Sơn trở về, bà đã gọi điện riêng cho Trường Tuế để cảm ơn cô.
Cuộc gọi kéo dài gần một tiếng đồng hồ, bà Tần đã dành gần năm mươi phút để ca ngợi chùa Thanh Sơn.
“Ở đó thật sự rất yên tĩnh. Mỗi buổi sáng tôi thức dậy với tiếng chim hót và tiếng chuông thanh bình, cả người tôi trở nên trầm tĩnh, đặc biệt là tôi thật sự đã bình tâm trở lại. Tôi đã đến rất nhiều ngôi chùa, các ngôi chùa hiện nay hầu như đều đã thương mại hóa. Các ngôi chùa giống như chùa Thanh Sơn thật sự rất hiếm, nó không xô bồ, một chút không khí kẻ buôn người bán cũng không có và rất ít khách hành hương đến chùa. Nơi đây quả thực rất thoải mái, môi trường và không khí quá tuyệt vời. Ông Tần và tôi mỗi ngày đều được nghe kinh, sau đó đi tản bộ sau ngọn núi, thật là đã lâu rồi tôi không có cảm giác mình được sống chậm lại như vậy.”
“Còn nữa! Tiểu Khương, lời cô nói chẳng sai chút nào, cơm chay ở chùa Thanh Sơn thật sự ăn rất ngon, đây là lần đầu tiên tôi được ăn bữa cơm chay ngon như vậy! Tôi đã nghĩ mình còn có thể giảm được vài cân, nào ngờ đâu tôi lại tăng cân hơn, tôi và ông Tần rời đi không đành.”
Trương Tuế nghe bà ấy nói, hai mắt khẽ cong lên: “Cơm chay do sư huynh Thanh Minh nấu là ngon nhất.”
Bà Tần nói: “Phải, phải, phải, không biết cơm nấu thế nào mà thơm cực kỳ luôn. Tôi nghe nói gạo đó là do các sư phụ trong chùa thuê ruộng lúa nước dưới chân núi để trồng, là gạo do chính mình trồng lúa mà có, tất cả rau xanh điều do nhà chùa tự trồng. Tôi đã nói rằng chúng tôi là bạn của cô, cô đã giới thiệu chúng tôi đến đây. Ây ya, những vị sư phụ trong ngôi chùa đó rất nhiệt tình và niềm nở với chúng tôi, thậm chí họ còn không cho chúng tôi trả phí sinh hoạt ăn và ở, điều đó khiến chúng tôi cảm thấy rất xấu hổ. Khi rời đi, tôi chỉ có thể cúng dường một ít tiền dầu mè.”