Quyển 1 - Chương 4: Chân hung vị minh (tứ)

Hoàng liên thanh nhiệt giải độc.

Phiền Tế Cảnh uống hai chén lớn, ăn thêm một viên mứt hoa quả, nghĩ cả người thanh tỉnh hơn rất nhiều, không giống như khi mới hồi Cửu Hoa phái hồn hồn ngạc ngạc.

Hoa Hoài Tú lấy thêm một bộ trà cụ ra, chử thêm một ấm khác.

Phiền Tế Cảnh im lặng nhìn y.

Phân ly trước mộ phụ mẫu khi còn nhỏ, nhiều năm sau gặp lại, đã cách nhau một khoảng thời gian dài. Khoảng thời gian này cũng đủ để thay đổi nhiều việc. Tỷ như tiểu nhi năm nào mở miệng ra toàn thất bính bát thấu [1] văn chương phu tử giờ đã trưởng thành thành một vị trọc thế phiên phiên giai công tử [2].

Tựa hồ cảm nhận được ánh mắt của hắn, khóe miệng Hoa Hoài Tú hơi nhếch lên, hơi nghiêng đầu sang trái, làm cho đường cong duyên dáng của cổ lộ ra rõ ràng hơn.

Phiền Tế Cảnh quả nhiên không kiềm chế được mở miệng nói: “Biểu ca.”

“Ân?” Y lười biếng đáp lại.

“Buổi tối ở đây nhiều muỗi, ngươi phải cẩn thận cái cổ.”

“…” Sắc mặt Hoa Hoài Tú tối sầm, quay đầu lại hung hăng trừng mắt nhìn hắn.

Phiền Tế Cảnh bị y trừng mạc danh kì diệu, biểu tình cực kỳ vô tội.

“Ta biết Cửu Hoa Sơn các ngươi không chỉ muỗi nhiều, cả thích khách cũng nhiều.” Hoa Hoài Tú hừ lạnh nói, “Chuyện sư phụ ngươi, sư thúc ngươi đã nói với ta.”

Nhắc đến Bộ Lâu Liêm, sắc mặt Phiền Tế Cảnh liền trở nên u ám.

“Nửa tháng này, ngươi muốn bắt đầu từ đâu?” Hoa Hoài Tú hỏi.

Phiền Tế Cảnh ngẩng đầu, kinh ngạc nhìn y, “Ngươi thực sự đáp ứng điều kiện của sư thúc.”

Nếu hắn không nói cái câu sát phong cảnh khi nãy, Hoa Hoài Tú còn có thể sẽ nói “ta là vì ngươi” các loại lời phiến tâm tình, nhưng hiện tại y đối với tên đầu gỗ kia chỉ có một bụng tức giận, “Nói nhảm. Ta là đào hôn trốn tới đây, chẳng lẽ còn muốn viết thư về nhà để bọn họ tới bắt sao?”

Phiền Tế Cảnh lo lắng nói: “Thế nhưng vạn nhất nhượng cữu cữu biết…”

Sắc mặt Hoa Hoài Tú càng trở nên lạnh hơn, “Ngươi sợ ta liên lụy tới ngươi?”

Phiền Tế Cảnh thở dài nói: “Ta là sợ hắn phạt ngươi.”

Ánh mắt Hoa Hoài Tú lúc này mới thoáng trở nên nhu hòa, “Hoa gia đệ nhất không thiếu tiền, đệ nhị không thiếu người. Thiếu ta cũng không hội cải biến gì.”

Phiền Tế Cảnh nói: “Cữu cữu rất thương ngươi.”

Hoa Hoài Tú không muốn kéo dài vấn đề này, chuyển trọng tâm câu chuyện nói: “Ngươi định tra án thế nào?”

Phiền Tế Cảnh nói: “Ta nghĩ trước tiên đi nhìn vết thương của sư phụ.”

“Nghiệm thi?” Hoa Hoài Tú nhíu nhíu mày, “Ngươi biết sao?”

“Không biết.” Phiền Tế Cảnh nói, “Sở dĩ ta nghĩ thỉnh đại sư huynh đi cùng ta.”

Hoa Hoài Tú ẩn ẩn bài xích từ miệng hắn nhắc đến người khác, nét mặt nhất thời mang theo vài phần chế giễu, “Hắn biết sao?”

“Không biết. Nhưng hắn nhất định biết thương thế do ‘Vãn hải cuồng triều’ tạo ra là như thế nào.”

Hoa Hoài Tú nghe hắn nói có lý, đành phải đồng ý.

Mấy người Quan Tỉnh đối với việc không được nhìn thấy thi thể của Bộ Lâu Liêm vẫn luôn canh cánh trong lòng, đương nhiên là nhất phách tức hợp (nhất chí, đồng ý, ăn nhịp với nhau). Vấn đề duy nhất hiện giờ là liệu Tống Bách Lâʍ ɦội đồng ý cho phép hay không.

Ngoài dự tính của tất cả, hắn ngay lập tức đáp ứng.

Tống Bách Lâm nói: “Ta đã đem việc này giao phó cho ngươi, tất nhiên là sẽ hết lòng chi trì.”

Phiền Tế Cảnh thấy sự tình thuật lợi như vậy, cảm kích không ngớt.

Tống Bách Lâm xua tay nói: “Hà tất phải cảm tạ ta? Ngươi nếu trong vòng nửa tháng không giao ra được hung thủ, ta sẽ tính thêm phần này vào nợ.”

Phiền Tế Cảnh không hề có ý lùi bước nói: “Ta tuyệt đối sẽ không để sư phụ chết oan!”

Tuy rằng Tống Bách Lâm đồng ý nhượng Phiền Tế Cảnh và Quan Tỉnh nghiệm thi, nhưng cũng không muốn cho người khác biết. Bí mật an bài buổi tối, để bọn họ vào dâng hương khấn vái xong, mới dẫn vào hậu đường.

Bởi tử trạng của Bộ Lâu Liêm vô cùng thê thảm, Tống Bách Lâm và Ngô Thường Bác vì không muốn làm tổn hại đến hình tượng chưởng môn của hắn, sớm nhập quan, chỉ đợi ngày hoàng đạo nhập táng. Bởi vậy muốn nghiệm thi thì phải khai quan.

Tống Bách Lâm thấy Phiền Tế Cảnh và Quan Tỉnh đều đang nhìn hắn, chậm rãi gật đầu nói: “Khai đi.”

Quan Tỉnh và Phiền Tế Cảnh đều là người luyện võ, nhổ mấy cái đinh đều dễ như trở bàn tay. Nhưng bọn hắn cũng không dám nhổ quá nhanh, e sợ làm kinh động đến anh linh (hồn thiêng trên trời) của sư phụ.

Nhổ hết đinh xong, Phiền Tế Cảnh và Quan Tỉnh lại giương mắt nhìn Tống Bách Lâm.

Tống Bách Lâm hựu gật đầu.

Bọn họ lúc này mới cẩn cẩn dực dực nâng nắp quan tài lên, mùi thi thể thối rữa lập tức xông vào mũi, Phiền Tế Cảnh theo bản năng đưa tay che lại mũi miệng.

Tống Bách Lâm nhíu mày, nhưng hắn dù sao cũng là sư thúc, che mũi miệng sẽ tổn hại đến thân phận, không thể làm gì khác hơn là diện vô biểu tình đứng im nín thở.

Bởi Phiền Tế Cảnh và Quan Tỉnh sợ quấy nhiễu Bộ Lâu Liêm, động tác vô cùng thong thả nhẹ nhàng, hết nửa nén hương cũng chưa xem xong.

Tống Bách Lâm nghĩ muốn mở miệng giục, lại sợ hít phải thi khí, dứt khoát xoay người đi ra ngoài.

Hắn vừa đi, Quan Tỉnh che miệng hạ giọng nói: “Từ vết thương nhìn ra, sư phụ đích xác là chết bởi ‘Vẫn hải cuồng triều’. Chiêu này phải phối hợp với nội công Loa Toàn Kính của bản phái, làm cho kiếm liên tục xoay tròn, vì thế vết thương gây ra là viên khẩu (động tròn).”

Phiền Tế Cảnh tưởng tượng đến tràng cảnh khi đó, sắc mặt tái nhợt nói: “Vậy chẳng phải sẽ khiến cho da thịt xung quanh bị xoắn…”

Quan Tỉnh khẽ gật đầu, “Trách không được lúc đó sư thúc không cho chúng ta nhìn hiện trường.”

Phiền Tế Cảnh nhíu mày.

Quan Tỉnh biết hắn đang suy nghĩ hung thủ, cũng không quấy rối, yên lặng khép quan tài lại, tay không đóng đinh mới vào hảo, mới thúc vai hắn nói: “Đi ra ngoài hãy nói.”

Phiền Tế Cảnh xoay người đi ra ngoài.

Tống Bách Lâm đứng tại ngoại đường, nhìn bài vị Bộ Lâu Liêm.

“Sư thúc.”

Phiền Tế Cảnh và Quan Tỉnh thấp giọng gọi.

“Thế nào?” Tống Bách Lâm hỏi.

Phiền Tế Cảnh liếc mắt nhìn Quan Tỉnh, thấy hắn gật đầu, mới nói: “Sư phụ xác thực là chết vì ‘Vãn hải cuồng triều’ của Tiên Liên kiếm pháp.”

Tống Bách Lâm cười lạnh nói: “Việc này còn cần các ngươi nói? Ta là hỏi các ngươi có phát hiện gì mới không.”

Phiền Tế Cảnh nói: “Không có.”

Tống Bách Lâm cũng không tức giận. Hắn và Ngô Thường Bác kiểm tra thi thể của Bộ Lâu Liêm trước sau hơn mười lần mới cho ra được một kết quả, nếu Quan Tỉnh và Phiền Tế Cảnh nhìn vài lần có thể phát hiện ra cái gì khác, hắn mới thấy phiền muộn.

“Lại đây dâng hương cho sư phụ ngươi. Sau đó trở về tẩy rửa sạch sẽ rồi hãy nói.” Hắn nói xong, chắp tay xoay người đi ra ngoài.

Quan Tỉnh và Phiền Tế Cảnh im lặng dâng hương, sau đó tự động trở về phòng.

Từ lúc Tống Bách Lâm đồng ý cho bọn họ nghiệm thị, hai người đã có dự cảm, từ thi thể sợ rằng cũng nhìn không ra được chu ti mã tích [3] gì. Nhưng dự cảm là một chuyện, thực sự không tìm được manh mối gì lại là một chuyện khác.

Phiền Tế Cảnh về phòng tắm rửa sạch sẽ, khoác ngoại y, ngẩn người đứng nhìn ánh trăng bên ngoài.

“Không có đầu mối?” Hoa Hoài Tú từ phòng mình đi ra, y phục chỉnh tề, hiển nhiên vẫn chưa ngủ.

Phiền Tế Cảnh nói: “Sư phụ xác thực là chết vì ‘Vãn hải cuồng triều’.”

“Cửu Hoa phái có bao nhiêu người hội Tiên Liên kiếm pháp?”

“Sư phụ trước khi qua đời từng truyền thụ cho đại sư huynh nhị sư huynh và ngũ sư đệ.”

“Một mình ngươi không được?” Hoa Hoài Tú bĩu môi nói, “Ta sớm đã biết sư phụ ngươi bất công. Luận tư chất phẩm tính, ngươi mới là ngươi có điều kiện tốt nhất trở thành y bát truyền nhân.”

Phiền Tế Cảnh nhíu mày nói: “Sư phụ làm thế, tất có lý do của riêng mình.”

“Ngươi…” Hoa Hoài Tú nguyên bản còn muốn nói gì đó, nhưng thấy vẻ mặt nghiêm túc của hắn, dường như lúc nào cũng có thể bị kích động, không thể làm gì khác hơn là nói sang chuyện khác: “Ngươi tiếp theo định chuẩn bị tra án như thế nào?”

Phiền Tế Cảnh nói: “Nếu Tiên Liên kiếm pháp chỉ có đại sư huynh bọn họ hội, ta trước tiên sẽ đi hỏi bọn hắn.”

Hoa Hoài Tú ôm ngực nói: “Tống Bách Lâm và Ngô Thương Bác ngay từ đầu một mực chắc chắn rằng sư phụ ngươi chết vì Tiên Liên kiếm pháp, xem ra đối với Tiên Liên kiếm pháp cũng rất lý giải.”

Phiền Tế Cảnh giật mình nói: “Ý của ngươi là?”

“Ý ta nói chính là…” Hoa Hoài Tú đảo mắt bốn phía, “Ta cảm thấy người trong Cửu Hoa phái không bình thường.”

Phiền Tế Cảnh nói: “Không bình thường?”

Hoa Hoài Tú nói: “Theo lý thuyết, sư huynh sư phụ của mình chết, phải bi phẫn tuyệt vọng mới đúng. Ngay cả nếu không bi phẫn tuyệt vọng, cũng phải bi thương. Thế nhưng ngươi xem, cả núi này trừ ngươi ra, còn người nào vì cái chết của Bộ Lâu Liêm mà đau buồn?”

Phiền Tế Cảnh nói: “Sư thúc và sư huynh đệ trước giờ vẫn luôn không biểu lộ tình cảm ra ngoài.”

Hoa Hoài Tú nhíu mày nhìn hắn.

“Làm sao vậy?” Phiền Tế Cảnh sờ sờ mặt mình.

“Khi còn bé không cảm thấy…” Vùng xung quanh lông mày của Hoa Hoài Tú càng nhăn chặt, “Ngươi khi lớn lên sao lại trở thành tên chất phác cổ hủ như thế này?”

Phiền Tế Cảnh nghiêm mặt nói: “Bởi vì ta hiểu chuyện.”

Hoa Hoài Tú tức giận nói: “Ta thà rằng ngươi cả đời không hiểu chuyện.”

Phiền Tế Cảnh suy nghĩ một chút nói: “Chờ đến khi nào biểu ca trưởng thành sẽ minh bạch.”

Hoa Hoài Tú không nói gì nữa, xông về phòng chộp ấm trà rồi lao tới chuẩn bị đập hắn.

Đáng tiếc người đứng ở chỗ này đã trở về phòng rồi.

Hoa Hoài Tú đi tới cửa, tay vừa đưa lên định gõ, bên trong phòng đột nhiên tối sầm, sau đó là tiếng tất tất tác tác của giường.

“…”

Hoa Hoài Tú buồn bực trờ về phòng đặt ấm trà xuống, cũng chuẩn bị lên giường ngủ, trong đầu đột nhiên hiện lên một tia sáng—–

Phiền Tế Cảnh là người luyện võ, vừa rồi hắn không có ý che giấu cước bộ. Theo lý thuyết, Phiền Tế Cảnh hẳn là có thể nghe ra hắn đứng tại cửa?

Hoa Hoài Tú tức giận nghiến răng, vọt nhanh tới bức tường ngăn cách giữa hai phòng, mạnh mẽ đấm một quyền.



Sau đó tắt đèn, lên giường, trùm chăn…

Nhu nhu mu bàn tay.

————————————————-

[1] Thất bính bát thấu 七拼八凑: ý chỉ kết hợp miễn cưỡng những điều không liên quan với nhau hoặc chỉ liên quan với nhau một cách khiên cưỡng, vụn vặt lại một chỗ thành một ý nghĩa tổng của những điều gán ghép kia. Đây là thành ngữ của Trung Quốc. Câu thành ngữ này mang hàm nghĩa xấu.

[2] Trọc thế phiên phiên giai công tử 浊世翩翩佳公子: công tử tốt đẹp xuất chúng, thanh nhã quý phái giữa trần tục ô trọc hỗn loạn. Sau đây là một chút nguồn gốc sự tích và bối cảnh lịch sử thời bấy giờ của câu trên.

“Phiên phiên trọc thế giai công tử. Vạn niên thâm khuê mộng lý nhân”

Hai câu trên là để chỉ việc giữa thế gian ô trọc mà có bậc phong lưu thanh tao văn nhã, là giấc mộng trong lòng nữ nhi chốn khuê phòng. Vốn “Phiên phiên trọc thế giai công tử” xuất xứ từ bộ Sử Ký Tư Mã Thiên, thiên Bình Nguyên quân, Ngu Khanh liệt truyện (平原君虞卿列傳). “Phiên phiên trọc thế giai công tử” ở đây là chỉ Bình Nguyên Quân, một trong bốn vị Công tử thời Chiến quốc.

Chiến Quốc tứ công tử (chữ Hán: 战国四公子) là bốn vị công tử nổi tiếng trong các nước chư hầu Sơn Đông thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Hoạt động của cả 4 vị công tử đều liên quan tới tình hình chính trị, quân sự cuối thời Chiến Quốc. Bốn vị công tử có đóng góp nhất định cho sự tồn vong của các quốc gia Sơn Đông trước sự xâm thực của nước Tần lớn mạnh phía tây khi đó. Bốn vị công tử gồm có:

§ Mạnh Thường quân Điền Văn nước Tề

§ Bình Nguyên quân Triệu Thắng nước Triệu

§ Tín Lăng quân Ngụy Vô Kỵ nước Ngụy

§ Xuân Thân quân Hoàng Yết nước Sở

Trong 4 công tử, ba người kể trên đều là con cháu vua chư hầu, chỉ có Hoàng Yết không phải dòng dõi quý tộc nhưng cũng là dòng dõi thế gia nước Sở.

Ở đây, chúng ta sẽ bàn về Bình Nguyên quân, vị Công tử được Thái Sử Công nói: Bình Nguyên Quân là một trang công tử tuyệt vời ở trong đời ô trọc.

Bình Nguyên quân (chữ Hán: 平原君;? – 253 TCN) tên thật là Triệu Thắng (赵胜), là công tử nước Triệu, một trong Tứ công tử Chiến Quốc. Ông là con của Triệu Vũ Linh Vương, em của Triệu Huệ Văn Vương. Trong hàng công tử nước Triệu, ông được coi là người hiền hơn cả. Ông thích tân khách, nuôi tân khách trong phủ được đến mấy nghìn người. Ông làm Tướng Quốc nước Triệu trên 30 năm dưới 3 đời vua Triệu Văn Vương, Huệ Văn Vương, Hiếu Thành Vương. Ba lần thôi không làm tể tướng, ba lần trở lại địa vị, được phong ở Đông Vũ Thành. Sau khi Bình Nguyên Quân mất năm 253 TCN, con cháu ông nối dõi đời đời mãi khi Tần diệt Triệu mới hết.

Nuôi môn khách:

Các công tử đều gây uy tín và thanh thế bằng việc nuôi các thực khách trong phủ. Số thực khách ăn ngủ ở nhà các công tử khi đông có đến hàng ngàn. Sử ký Tư Mã Thiên ghi nhận Mạnh Thường quân, Bình Nguyên quân và Tín Lăng quân đều có đến 3000 thực khách trong nhà. Họ đến ở nhờ một thời gian và có thể ra đi, không có sự ràng buộc như các thủ hạ dưới quyền các vị công tử này.

Bình Nguyên quân luôn tìm cách thu phục lòng người mà giữ môn khách. Có người què bị mỹ nhân của ông cười nhạo liền đến gặp ông đòi gϊếŧ mỹ nhân đã cười nhạo. Bình Nguyên quân không nghe, một thời gian sau môn khách bỏ đi dần. Ông liền nghe lời môn hạ gϊếŧ người mỹ nhân kia để chuộc tội cho người què rồi đến nhà người què để tạ lỗi. Môn khách mới dần trở lại.

Hợp tung với Sở:

Năm 258 TCN, tướng Tần là Bạch Khởi đem quân đánh thắng Triệu, vây khốn Hàm Đan- kinh đô Triệu. Bình Nguyên Quân theo ý vua sang sứ nước Sở cầu viện binh, hợp tung đánh Tần.

Ông chọn ra 20 người môn hạ trong đó có Mao Toại. Vì Mao Toại khéo ăn nói lên việc hợp tung thành công, vua Sở phải uống máu ăn thề. Từ đó Bình Nguyên Quân tôn Mao Toại làm thượng khách.

Đánh Tần giải cứu Hàm Đan:

Quân Tần vây khốn Hàm Đan rất gấp viện binh chưa đến kịp. Bình Nguyên Quân nghe lời người coi trạm thành Hàm Đan là Lý Đồng hiến kế đem của cải trong nhà chia cho quân sĩ tuyển chọn được ba nghìn người cảm tử đánh Tần. Vì thế mà quân Tần phải lui, Hàm Đan được bảo toàn.

Môn hạ:

Trong số các môn hạ của ông nổi tiếng nhất là:

§ Mao Toại

§ Công Tôn Long

Kết cục:

Uy tín rất cao của các vị công tử đã vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia và chính điều này khiến một số vị gặp phải sự nghi ngờ, đố kỵ của các quân vương.

Mạnh Thường quân, Tín Lăng quân tuy từng được vua Tề, vua Ngụy dùng nhưng cuối cùng các vua Tề, Ngụy đều sợ các công tử giành mất ngôi mà đoạt chức. Cuối cùng cả hai ông đều mất trong buồn bã. Xuân Thân quân bị Lý Viên, thủ hạ của ông, phục binh gϊếŧ chết. Chỉ có Bình Nguyên quân có kết cục trọn vẹn và là người may mắn hơn cả trong tứ công tử. Ông mất năm 253 TCN. (Có bản dịch khác của Sử Ký ghi là Bình Nguyên quân mất năm 251 TCN)

Sự thất sủng hoặc cái chết của tứ công tử Chiến Quốc ít nhiều ảnh hưởng đến sức mạnh của nước chư hầu mà họ phục vụ.

Mặc dù sự cường đại về sức mạnh của nước Tần ngày càng áp đảo các chư hầu và xu thế thống nhất của quốc gia này là khó đảo ngược, song thực tế cho thấy sự hiện diện trên chính trường của bốn vị công tử góp phần duy trì, kéo dài cục diện Thất hùng thời Chiến Quốc.

Lời kết và bình về Bình Nguyên quân Triệu Thắng của Thái Sử Công:

Thái Sử Công nói:

“Bình Nguyên Quân là một trang công tử tuyệt vời ở trong đời ô trọc. Nhưng ông ta chưa biết cái đạo lớn. Tục ngữ nói, ‘Lợi làm cho trí mờ’. Bình Nguyên Quân tham nghe lời tà thuyết của Phùng Đinh (1), khiến cho quân Triệu bị vây hãm ở Trường Bình, bị chôn sống mất hơn bốn mươi vạn, suýt nữa mất Hàm Đan. “


(1)Năm 262 trước công nguyên, quân Tần đánh Hàn, tướng Hàn là Phùng Đinh đem đất Thương dâng Triệu. Bình Nguyên Quân khuyên nhà vua nhận đất ấy. Tần đem quân đến Trường Bình đánh Triệu, thua to, bốn mươi vạn quân bị chôn sống. Thủ đô Triệu là Hàm Đan suýt bị mất.

[3] Chu ti mã tích 蛛丝马迹: chu ti: sợi tơ nhện, mã tích: vết chân ngựa, “chu ti mã tích” ví với việc không tìm ra manh mối rõ ràng của sự việc.