Xế trưa, hầu hết,ma-cà-rồng chui vào quan tài để nghỉ ngơi. Họ còn có thể vui vẻ tiếp tục nhậu nhẹt và đánh nhau, nhưng họ cần phải chuẩn bị cho các buổi khiêu vũ chính thức, sẽ khai mạc vào lúc mặt trời lặn. Có ba buổi khiêu vũ trong thời gian lễ hội vào mỗi cuối ngày. Phải sử dụng tới hai phòng lớn mới chứa được tất cả ma-cà-rồng.Khiêu vũ là một sự kiện lạ lùng. Vẫn trong những bộ quần áo sặc sỡ đủ màu, nhưng bây giờ, quần áo đã te tua tơi tả, mặt mũi thân hình thì bầm tím, bê bết máu. Nhiều vị gãy tay què cẳng cũng ra sàn nhảy, thậm chí cỏ kẻ còn lò dò chống nạng.
Tiếng chuông đồng hồ điểm đúng hoàng hôn, tất cả ma-cà-rồng đều ngước mặt lên trần, tru lên như bầy sói hoang. Tiếng tru kéo dài mấy phút. Ma-cà-rồng nào cũng giữ tiếng tru dài hết sức mình. Họ gọi hành động này là “tiếng tru đêm”, báo hiệu buổi khiêu vũ đầu tiên trong lễ hội. Ma-cà-rồng nào có làn hơi dài nhất sẽ đoạt danh hiệu “ tiếng tru” cho tới kì họp hội đồng sau. Như vậy, nếu tôi đoạt giải, tôi sẽ được gọi là Darren Shan Tiếng Tru trong suốt mười hai năm tới.
Tất nhiên tôi đâu dám mơ đoạt giải. Là ma-cà-rồng nửa mùa, giọng tôi ẹ nhất đám, và tiếng tru của tôi tịt ngòi đầu tiên. Dần dần, lần lượt từng người, cũng tắt lị vì giọng rè như ống bơ rỉ. Cho đến hồi kết cuộc, chỉ còn một số ít, phùng má trợn mắt ráng sức tru. Trong khi vài ma-cà-rồng cuối cùng rống đến khản giọng, đám còn lại thúc giục gà nhà:
- Cố lên, Butra!
- Tru như ma quỷ đi, Yebba!
Tiếng chân tay thình thịch đập lên sàn.
Kết thúc, kẻ thắng cuộc là một ma-cà-rồng khổng lồ. Yebba. Đó là một tay chiến thắng nổi tiếng, trước đây đã từng giật giải hai lần - nhưng thất bại trong lần hội cuối cùng. Trong buổi lễ ngắn gọn, ông ta phải uống một thùng máu liền hơi, không được ngừng nghỉ, rồi được ông hoàng Paris Skyle phong danh hiệu.Ông hoàng già vừa dứt lời, ban nhạc tấu lên ngay, và các ma-cà-rồng bắt đầu khiêu vũ.
Ban nhạc gồm nhiều tay trống. Họ giữ nhịp trống nặng nề, chậm rãi. Vừa khiêu vũ bằng những bước ngắn, cứng đờ, ma-cà-rồng vừa ê a những bài hát cổ, kể lể về những trận đánh lớn, những nhà vô địch của ma-cà-rồng; vinh danh những ma-cà-rồng đã chết một cách cao thượng, nguyền rủa những kẻ phản bội hay làm ô nhục thị tộc (tuy nhiên, theo tục lệ, họ không nêu tên những kẻ phản bội và những ma-cà-rồng có địa vị thấp kém).
Tôi ráng nhảy, vì ai cũng phải nhảy một lần, nhưng đành chào thua. Nếu có loại nhạc nhanh và ồn ào, tôi có thể nhảy tưng lên được, nhưng với tiếng trống lừ đừ từng nhịp này, tôi không thể giữ được bước chân cho chuẩn xác. Nếu bạn không biết cách, trông bạn nhảy sẽ ngố không chịu nổi. Hơn nữa, chẳng biết những lời sầu thảm kia có nghĩa gì, càng thêm trở ngại. Ngoài ra nhảy nhót làm tôi ngứa ngáy, cứ phải ngừng lại để … gãi lưng.
Sau vài phút, tôi cáo lỗi, chuồn ra ngoài đi tìm Seba Nile. Vì ông bảo có thuốc chữa ngứa rất công hiệu. Tôi tìm ra vị sĩ quan quân nhu trong phòng thứ hai. Ông đang vừa nhảy vừa giữ bè chính cho bài hát. Tôi tìm chỗ ngồi chờ.
Thấy tôi, ông Gavner Purl tiến lại, cùng ngồi. Ông thở hồng hộc như kiệt sức, bảo:
- Ta mới chỉ nghỉ được hai tiếng trong quan tài. Gặp mấy vị thầy cũ, phải hầu chuyện các cụ hầu như suốt cả ngày.
Ban nhạc tạm nghỉ, để các tay trống uống chút máu trước khi chuẩn bị cho bài hát tiếp theo. Ông Seba cúi chào bạn nhảy, bước khỏi sàn. Tôi với tay ngoắc để ông chú ý. Ông ngừng lại, lấy cốc rượu, rồi tiến lại hỏi:
- Vui chứ Gavner, Darren.
Ông Gavner khò khè trả lời:
- Vui, nếu tôi còn đủ sức.
- Còn cháu, Darren. Thấy lễ hội của chúng ta thế nào?
Tôi thành thật nói:
- Thấy kì kì! Trước hết là vì, tự nhiên tất cả tru lên như bầy thú hoang, rồi nhảy vòng vòng cứ như người máy...
Cố nhịn cười, ông Seba nhẹ nhàng khiển trách:
- Đừng nói lớn. Cháu làm chúng ta tự ái đấy. Hầu hết ma-cà rồng đều hãnh diện về tài khiêu vũ của mình. Họ nghĩ... họ nhảy rất điệu nghệ.
Tôi gãi chân, nhăn nhó:
- Ông Seba, ông có nhớ là bảo có thuốc chữa ngứa không?
- Nhớ chứ.
- Làm ơn cho cháu một chút ngay đi.
- Không dễ lấy đâu. Chúng ta phải xuống những đường hầm bên dưới các phòng.
- Khi nào rảnh, ông nhớ đi lấy cho cháu nhé.
- Ta đang rảnh đây. Nhưng trước hết, hãy đi tìm Kurda Smahlt. Ta đã hứa, khi nào đi sẽ cho ông ta đi cùng. Kurda muốn làm bản đồ khu đó.
- Cháu phải cho ông ta biết chúng ta đi đâu?
- Cứ bảo chúng ta đến nơi toàn nhện, ông ta sẽ hiểu ngay. À, nhớ đem theo con nhện xinh đẹp của cháu, quý bà Octa đó.
Kura đang chăm chú nghe những truyền thuyết ngày xưa. Những tay kể chuyện là một nhu cầu lớn trong lễ hội. Ma-cà-rồng không quan tâm nhiều đến sách vở. Họ thích giữ gìn quá khứ bằng những lời nói sống động hơn. Theo tôi nghĩ, toàn bộ lịch sử ma-cà-rồng chưa bao giờ được viết ra giấy.
Khều tay Kurda, tôi thì thầm cho ông biết lời nhắn của Seba. Kurda đồng ý cùng đi, nhưng ông phải lấy dụng cụ làm bản đồ, và sẽ gặp lại chúng tôi ngoài bản doanh của ông Seba, sâu trong lòng núi.
Trở lại cùng quý bà Octa, tôi được biết, ông Gavner cũng sẽ cùng đi. Vì, ông bảo, nếu cứ ngồi nghe nhạc, bên những ngọn đuốc ấm áp và dựa người vào các ma-cà-rồng, ông sẽ bị ngủ gục mất
Bắt chước giọng nồng muối mặn của một thủy thủ, ông Gavner nói:
- Theo lệnh thuyền trưởng, ta phải làm một vòng dưới boong tàu.
Nghĩ là Harkat thích được thấy những đường hầm sâu dưới núi ma-cà-rồng ra sao, tôi đi tìm hắn. Nhưng hắn được các ma-cà rồng ái mộ vây quanh. Tửu lượng của Harkat mạnh hơn ma-cà-rồng nhiều. Uống suốt ngày đêm chẳng nhằm nhò gì. Các ma-cà-rồng kinh ngạc vì tài nhậu nhẹt của hắn và đang hoan hô rầm rầm, trong khi Harkat nốc tù tì từ cốc này tới cốc khác. Để hắn thoải mái với những người bạn mới, tôi trở lại tìm ông Seba.
Chúng tôi tụ tập trước phòng ông Seba, rồi sẵn sàng khởi hành. Lính canh trong các đường hầm trông không giống mọi ngày - trong lễ hội, không ma-cà-rồng nào có thể làm tròn trách nhiệm bình thường. Trang phục không gọn gàng tươm tất, vài tay lại còn hơi ngà ngà. Nếu vào thời điểm khác, đây là điều tối kị trong khi làm nhiệm vụ. Ông Seba cho họ biết là chúng tôi định đi đâu. Họ ngoắc tay cho chúng tôi qua và căn dặn:
- Coi chừng bị lạc.
Kurda cười cười:
- Cứ theo mùi rượu nồng năc của các anh, làm sao lạc được.
Mấy lính canh cười ha hả và dọa đùa là sẽ chặn đường chúng tôi trở lại. Một anh chàng tỉnh táo hơn hỏi ông Seba có cần đuốc không. Ông bảo:
- Không. Vách hang phủ đầy nấm sáng rồi.
Khi tới đoạn hầm mới, Kurda lấy dụng cụ ra. Tưởng gì, thì ra chỉ là một miếng giấy kẻ ô và một cây bút chì. Ông luôn dừng lại vạch một đường nhỏ xíu lên trang giấy, biểu thị độ dài đường hầm chúng tôi đã vượt qua.
- Lập bản đồ đường hầm không khó. Nó khác với việc vẽ bản đồ một vùng đất trống, hay một vùng duyên hải.
Gavner bảo;
- Đừng tin ông ấy. Đường hầm cũng khó thấy mồ. Ta đã thử một lần, hỏng hết. Phải tính theo tỉ lệ, bảo đảm độ dài phải chính xác. Chỉ sai một phân số nhỏ nhất, tấm bản đồ coi như bỏ.
Kurda nói với Gavner:
- Chỉ do quen tay. Ông ghi chép nhanh, nếu cố gắng làm đúng phương pháp.
- Thôi, cảm ơn. Tôi không định giam mình trong những đường hầm chằng chịt, cố gắng vẽ một bản đồ. Thích thú gì chứ, nghỉ sướиɠ hơn.
- Hấp dẫn lắm chứ. Nó giúp người ta hiểu rõ hơn môi trường xung quanh. Ấy là chưa kể, tinh thần sảng khoái sau khi hoàn tất công việc. Ngoài ra, còn khía cạnh ứng dụng nữa.
- Ứng dụng? Ngoài anh ra, chẳng ai thèm dùng đến bản đồ cà.
- Không dám đâu. Đúng là chẳng ai quan tâm giúp tôi lập bản đồ, nhưng rất nhiều kẻ nhiệt tình sử dụng đấy. Ông có biết, chúng ta đang xây dựng một khu mới, thấp hơn tất cả các tầng khác, từ mấy năm rồi không?
Gavner gật đầu:
- Biết. Kho dự trữ.
- Kho đó được hình thành từ cái hang tôi đã khám phá ra. Nó sẽ được nối với toàn thể các phòng ốc xuyên qua một đường hầm chưa ai biết, cho đến khi tôi phát hiện.
Ông Seba nhận xét:
- Lại còn những khe hở nữa chứ.
Tôi vội hỏi:
- Khe hở gì ạ?
- Những đường hầm mở vào các phòng. Kurda khai quật, đào xới nhiều lần làm chúng ta quan tâm:ngoài cổng chính, còn có quá nhiều đường có thể xâm nhập. Vì vậy, phải bít lại, tránh bị tấn công.
Tôi nhăn nhó hỏi:
- Tuốt trên cao này, kẻ nào có thể tấn công được chứ?
Kurda giải thích:
- Ông ấy muốn nói tới các loài muôn thú. Sói, chuột, dơi đều có thể lẻn vào tìm thức ăn. Chúng gây rất nhiều bất lợi và phiền toái. Bản đồ của ta giúp ngăn chặn được sự phá phách của chúng rất nhiều.
Ông Gavner cười;
- Được, tôi nhầm, bản đồ của ông rất có ích. Nhưng anh vẫn không thể dụ tôi xuống đây giúp anh làm bản đồ đâu.
Chúng tôi lẳng lặng tiến tới. Đường hầm hẹp, trần thấp lè tè, ba ma-cà-rồng phải lom khom đi. Lại thêm tối mù mù, dù vẫn thấy đường, nhưng không đủ sáng để Kurda ghi chéo. Ông lấy ra cây nến, nhưng vừa định thắp, bị Seba ngăn lại:
- Không được thắp nến.
- Nhưng tôi không thấy gì hết.
- Rất tiếc, nhưng anh phải ráng thôi.
Kurda làu bàu, dí mũi sát tờ giấy, vừa đi vừa thận trọng vẽ, thỉnh thoảng lại bị vấp chân. Cuối cùng, sau khi phải bò qua một đoạn hầm nhỏ xíu, chúng tôi tiến vào một cái hang động vừa phải, từ nền lên trần phủ đầy mạng nhện. Seba thì thầm:
- Giữ im lặng. Đừng làm phiền khách trọ.
""Khách trọ"" là những con nhện. Hàng ngàn - có lẽ hàng trăm ngàn - nhện lổm ngổm khắp hang. Chúng đánh đu từ trần, treo mình trên lưới, bò trên nền hang. Trông chúng giống như con nhện tôi đã thấy khi mới tới Núi ma-cà-rồng, vàng khè và đầy lông lá. Không con nào lớn bằng quý bà Octa, nhưng lớn hơn tất cả những con nhện bình thường.
Một bầy bò gấp lại chúng tôi. Ông Seba thận trọng quỳ một gối, nhè nhẹ huýt sáo. Đám nhện ngập ngừng rồi trở lại vị trí cũ. Ông bảo:
- Tụi này là lính gác Chúng bảo vệ cho đám kia, nếu chúng ta có ý làm hại.
Tôi hỏi:
- Bảo vệ bằng cách nào? Cháu tưởng chúng không có nọc độc?
- Đơn lẻ thì chúng vô hại. Nhưng nếu bị chúng tấn công cả bầy, sẽ chẳng hay ho gì. Người thường có thể chết, nhưng ma-cà-rồng không đến nỗi bị chết, nhưng cũng rất nghiêm trọng, có thể gây tê liệt.
Kurda thì thầm:
- Bây giờ tôi hiểu vì sao ông không cho thắp nến. Chỉ một tia lửa, nơi này sẽ thành tro.
- Chính xác.
Seba tiến ra giữa hang. Chúng tôi chầm chậm theo sau. Quý bà Octa đã leo lên song l*иg, chăm chú quan sát lũ nhện. Ông đưa tay cho mấy con nhện bò từ bàn tay lên cánh tay, thì thầm nói với chúng tôi:
- Chúng đã ở đây từ mấy ngàn năm. Chúng được gọi là nhện của Ba`Halen, nếu có thể tin vào truyền thuyết thì đó là ma-cà-rồng đầu tiên đã đem chúng tới đây. Loài người không hề biết chúng sinh tồn tại nơi này.
Tôi tỉnh bơ khi lũ nhện bò lên đùi - vì đã quen chăm sóc quý bà Octa, và trước kia tôi từng coi nghiên cứu về loài nhện như một trò giải trí - nhưng Gavner và Kurda tỏ ra lo lắng. Ông Gavner bảo ông Seba:
- Ông chắc chúng không cắn chứ?
- Chúng cắn mới là điều ngạc nhiên. Loài nhện này hiền lành, dễ bảo lắm. Chúng chỉ tấn công khi bị đe dọa.
Một con nhện bò lên mũi Kurda. Ông rên rẩm:
- Tôi sắp hắt xì đến nơi rồi!
Seba vội cảnh giác:
- Đừng. Chúng sẽ tưởng là anh gây hấn đó.
Kurda nín thở, rùng mình vì cố nhịn hắt xì. Mặt ông ta đỏ bừng bừng bừng khi một con nhện bò khỏi mũi:
- Chuồn khỏi đây thôi.
Gavner đồng ý ngay:
- Lời đề nghị hay nhất đêm nay đó.
Ông Seba mỉm cười:
- Đừng quá nóng vội, các bạn. Ta không đưa các người xuống đây để giải trí. Có nhiệm vụ đấy. Darren, cởϊ áσ ra.
- Tại đây ạ?
- Cháu muốn hết ngứa, đúng không?
- Dạ... nhưng...
Tôi thở dài làm theo lệnh. Khi lưng tôi trần trụi, ông Seba tìm mấy màng nhện cũ, đã bị lũ nhện bỏ từ lâu. Ông lại ra lệnh:
- Cúi xuống.
Ông vê vê màng nhện cho nát vụn và lả tả rớt xuống lưng tôi.
Gavner hỏi:
- Ông làm gì vậy?
- Trị ngứa.
Kurda nghi hoặc hỏi:
- Bằng màn nhện? Thật tình tôi không nghĩ là ông lại tin chuyện lẩm cẩm của mấy bà già, ông Seba.
Tiếp tục rải màng nhện lên những vết nứt nẻ trên lưng tôi, ông Seba nói:
- Chẳng có gì là lẩm cẩm. Trong màng nhện có hóa chất giúp lành vết sưng và trị ngứa. Chỉ trong vòng một tiếng sẽ hết ngứa ngay.
Sau đó ông dùng số màng nhện còn dai băng bó lên những vùng bị nhiễm độc, kể cả hai bàn tay tôi. Ông Seba bảo:
- Trước khi rời đây, chúng ta sẽ gỡ những lớp màng nhện này ra. Nhưng nhớ là không được lau rửa trong một, hai đêm. Tắm rửa, sẽ bị ngứa lại ngay.
Gavner lèm bèm:
- Điên thật! Chẳng ăn thua gì đâu.
Tôi phản đối ngay:
- Trái lại, cháu thấy công hiệu rồi đấy. Khi mới vào đây, tưởng chết vì ngứa hai bắp chân. Bây giờ bớt nhiều rồi.
Kurda hỏi:
- Nếu hiệu quả đến thế, sao chúng tôi chưa hề nghe nói đến vụ này?
Ông Seba trả lời:
- Vì ta không phổ biến. Nếu tác dụng trị bệnh của bột màng nhện được phổ biến rộng rãi, ma-cà-rồng sẽ kéo nhau rầm rập xuống hang này. Họ sẽ làm hỏng lối sống tự nhiên của nhện, Đẩy chúng xuống sâu hơn vào núi. Như thế chỉ trong mấy năm sẽ hết sạch nguồn màng nhện dự trữ. Ta chỉ đưa những kẻ thật sự cần giúp đỡ xuống đây, và luôn yêu cầu họ giữ kín chuyện này. Ta tin không ai trong các ngươi phụ lòng tin tưởng của ta.
Cả ba chúng tôi đều hứa sẽ giữ bí mật.
Ông Seba đem quý bà Octa ra khỏi l*иg rồi đặt lên mặt đất. Quý bà chễm chệ ngồi, lắc lư giữa đám nhện bu quanh. Một nhóc nhện, lưng lống đốm xám nhạt, xông tới giở trò tấn công, bị ả thản nhiên đá văng ra. Đám còn lại rút lui ngay. Ngay khi đã làm quen với địa bàn, quý bà Octa mở cuộc thám hiểm. Ả bò lên vách, leo lên những lưới nhện, làm lũ nhện tức giận, nhưng êm ra ngay vì thấy ả to đùng nhưng không có ý làm hại chúng. Chỉ đám nhện xếp hàng - dẫn đầu là con nhện đốm xám - đang bò theo Octa, ông Seba nói:
- Chúng đã nhận ra vẻ quý phái của quý bà. Để Octa lại đây, chúng sẽ bầu ả làm nữ hoàng ngay.
Kurda hỏi:
- Liệu ả có thể sinh đẻ với chúng không?
- Chắc là không. Nhưng nếu được vậy cũng hay. Mấy ngàn năm nay không có giống mới nào. Nghiên cứu kết quả của sự phối giống này cũng đáng mê lắm chứ!
Gavner rùng mình:
- Quên chuyện đó đi. Nếu bầy con cũng mang nọc độc như mẹ nó thì sao? Ngàn ngàn nhện độc nhung nhúc khắp các đường hầm, chúng ta làm sao tránh khỏi bi cắn chết.
Ông Seba cười:
- Không dễ bị cắn vậy đâu. Loài nhện không có khuynh hướng chọn những con mồi to lớn hơn chúng, trong khi chung quanh có những con mồi nhỏ hơn và béo bở hơn. Dù sao ả cũng không phải của ta. Việc này phải để cho Darren quyết định.
Tôi chăm chú nhìn con nhện độc suốt mấy phút. Ả có vẻ hạnh phúc được ra ngoài cùng đồng loại. Nhưng hơn ai hết tôi biết hậu quả - nếu bị ả cắn - tai hại đến thế nào. Tốt hơn là đừng liều lĩnh. Tôi bảo:
- Cháu thấy không nên để nó ở lại đây.
- Tốt thôi.
Ông Seba đồng ý, rồi nhè nhẹ huýt sáo. Quý bà Octa trở vào l*иg, nhưng lập tức nằm sát song l*иg, nhìn ra. Dường như nó cảm thấy cô đơn. Tuy rất thương nó, nhưng tôi tự nhủ, nó chỉ là một con nhện, làm gì có những cảm xúc như thế.
Seba vui đùa cùng bầy nhện một lát. Ông huýt sáo mời gọi chúng bò lên khắp người. Tôi lấy ống sáo từ trong l*иg của quý bà Octa - thật ra chỉ là chiếc còi nhỏ bằng thiếc - và tham gia cùng ông. Mất mấy phút tôi mới chuyển tư tưởng được tới đám nhện. Không dễ như liên kết ý nghĩ với quý bà Octa. Nhưng ngay khi đã kiểm soát được, tôi và ông Seba đã có một buổi vui chơi đầy thú vị. Chúng tôi điều khiển cho chúng nhảy lên mình và nhả tơ giăng lưới từ đầu đến chân.
Gavner và Kurda sửng sốt đến ngẩn người. Ông Gavner lắp bắp hỏi:
- Mình... làm giống vậy được không?
Ông Seba nói:
- Chắc là không. Nhìn thế chứ không dễ đâu. Darren có tài năng thiên bẩm với loài nhện. Rất hiếm người có khả năng liên kết được với chúng. Darren, cháu là một thiếu niên may mắn đó.
Suốt mấy năm qua tôi ác cảm với nhện, từ vụ tồi tệ xảy ra giữa Octa và người bạn thân thiết nhất của tôi, Steve Leopard. Nhưng mấy lời nói của ông Seba làm tôi cảm thấy tình yêu thương loài vật tám chân, ăn thịt này trỗi dậy, và làm tôi tự hứa từ nay sẽ quan tâm hơn tới thế giới của những con vật giăng tơ này.
Chơi đùa với lũ nhện xong, Tôi và ông Seba phủi sạch màng nhện trên người - thận trọng giữ lại phần tơ trị bệnh mà ông đã rịt lên người tôi. Khi bốn chúng tôi bò ra khỏi đường hầm, một số nhện bò theo, nhưng tất cả đều quay trở lại khi nhận ra chúng tôi bỏ đi luôn, chỉ trừ con nhện đốm lưng. Nó lẽo đẽo theo chúng tôi gần tới cuối đường hầm, dường như bị quý bà Octa thu hút và miễn cưỡng phải nhìn cô ả ra đi.