Phong Thiệu bước đi chậm rãi trong làn sương mù, dường như thân thể của y đang chìm đắm trong tửu trì nhục lâm*, nâng chén cạn ly. (*Hồ rượu, rừng thịt: Đổ rượu đầy vào vào hồ nước, treo thịt lên cây tạo thành một rừng thịt. Đây là ý chỉ cuộc sống xa hoa, trụy lạc)
Bên tai vang lên tiếng cười nói vui vẻ của các sư huynh đệ, có người ném hồ lô rượu cho y, có người ríu rít bàn luận không ngừng, cảnh tượng cực kỳ vui vẻ, náo nhiệt.
Nhưng sự vui vẻ ấy chỉ tồn tại trong khoảnh khắc ngắn ngủi, sương mù càng lúc càng dày đặc, chẳng biết từ lúc nào trước mắt y đã biến thành một khung cảnh khác — Toàn bộ tông môn khổng lồ bị màn đêm bao phủ, theo những tiếng ngâm nga pháp quyết của Kiếm tu mặc đạo bào đỏ rực, từng luồng Kiếm Long hắc hồng dội thẳng về phía trước chẳng hề thương xót, lập tức khiến tông môn chìm trong những tiếng kêu gào thảm thiết, vô số tu giả chẳng thấy rõ mặt đang bỏ chạy toán loạn giữa làn kiếm quang.
“Ma đầu đánh tới đây rồi, mọi người mau chạy đi!”
“A! Cầu xin ngươi, cầu xin ngươi đừng gϊếŧ ta mà!”
“Đừng! A!”
Phong Thiệu nhìn thấy rất nhiều người vô tội đang cầu xin Kiếm tu hồng y đứng giữa hư không kia, nhưng hai tròng mắt của gã đã đỏ quạch như hai ngọn lửa đang bùng cháy dữ dội, chúng ánh lên sát khí tựa như muốn thiêu đốt tất thảy vạn vật thành tro tàn.
Phong Thiệu muốn tiến lên ngăn cản đối phương theo bản năng nhưng chính y cũng biết mình chẳng thể ngăn nổi. Bởi vì chỉ khi y không ngừng gϊếŧ chóc thì mới có thể cứu được người quan trọng nhất trong lòng y. Phong Thiệu chỉ đành trơ mắt nhìn số người còn sống càng lúc càng giảm, bia đá nhẵn nhụi vốn thường được lau chùi nay đã vấy đầy máu tươi và óc người. Cuối cùng, chẳng còn ai chạy thoát được khỏi Kiếm tu kia.
“…Thiên Đạo hữu thường …Ngươi… Ngươi ắt sẽ gặp báo ứng!”
Người cuối cùng đã nói ra câu đó. Trong nháy mắt ấy, Phong Thiệu liền thấy nàng đã quỳ rạp bất động trên mặt đất ở dưới chân kiếm tu. Chỉ một lát sau, dòng máu tươi bắt đầu chậm rãi chảy ra từ yết hầu của nàng, nhanh chóng tụ lại thành một vũng rồi cùng chảy về nơi mà máu của các đệ tử trong tông môn của nàng đã chảy.
Thiên Đạo hữu thường
Ngươi ắt sẽ gặp báo ứng
Những lời này tựa như một nhát búa nặng nề giáng thẳng vào tim Phong Thiệu khiến y bỗng cảm thấy l*иg ngực mình đang dần lún sâu xuống, cứ không ngừng lún sâu như đang rơi vào một nơi chẳng thấy đáy…
Người đã chết kia lại bỗng nhiên sống dậy, gã khuấy đảo toàn bộ máu tươi thành một màu đen sẫm đầy quỷ dị, đến khi Phong Thiệu quay đầu nhìn lại thì khuôn mặt đó đã biến thành dáng vẻ của Thanh Dương. Đôi mắt gã chứa đầy sự hung ác nham hiểm, sắc mặt âm ngoan, gã điều khiển hàng ngàn hàng vạn bộ xương trắng với vẻ thù hận.
“Sư huynh, ta muốn gϊếŧ ngươi!”
Vậy mà thế công như dời non lấp biển kia lại không hề đánh về phía Kiếm tu hồng y đang đứng giữa không trung mà chợt bay thẳng về phía y. Phong Thiệu không thể nhìn thấy chính bản thân mình, cũng chẳng nhúc nhích được, y gào to tên “Tiểu Bạch” nhưng chẳng biết Phong Bạch đã đứng cạnh Tử Hư đạo nhân từ lúc nào. Hắn mặc một thân đạo bào màu trắng, ánh mắt lạnh lùng đầy từ bi nhìn y như thể đang nhìn một kẻ xa lạ.
Hắn nâng Trạm Lô kiếm rồi nói với Phong Thiệu — “Sư thúc, tội gì phải ngoan cố như vậy.” “Ta đến vì Thiên Đạo, đến vì hàng ngàn hàng vạn tu giả đã chết trong tay ngươi.”
Cuối cùng, Phong Thiệu chỉ đành trơ mắt nhìn thân thể của mình bị bạch cốt và kiếm khí như muốn che lấp đất trời xuyên thủng, phát ra một tiếng vang nặng nề rồi vỡ thành mảnh nhỏ… chỉ còn lại một khuôn mặt mang vẻ dữ tợn.
Y chợt mở bừng mắt trong cơn hoảng sợ.
Nắng mai tươi đẹp rọi thẳng vào mắt Phong Thiệu, đạo lữ của y đã tỉnh từ lâu giờ đang nằm sấp trên ngực y mà ngẩn người, cằm hắn gối lên chỗ trái tim y, đè đến độ khiến người ta ngạt thở.
Phát hiện Phong Thiệu đã tỉnh nên Phong Bạch chợt quay đầu liếc nhìn y, đôi mắt vàng mơ màng chỉ mở có một nửa, miệng thì ậm ờ lẩm bẩm “Thúc thúc lại gặp ác mộng à?”
Phong Thiệu nâng tay lau sạch mồ hôi lạnh trên mặt, y khẽ thở phào một hơi rồi hôn nhẹ lên trán đối phương.
Sau khi đôi con cưng của Côn Luân là Phong Thiệu và Phong Bạch hợp tịch thì đã cùng đi du ngoạn trong thế tục.
Khoảng thời gian này hoàn cảnh của Cửu Châu đang nhiễu nhương, yêu thú hoành hành, Tán tu và tông môn xung đột như nước với lửa khiến dân chúng người phàm rơi vào cảnh lầm than. Trong lòng Phong Thiệu cảm thấy không nỡ nên đã cùng Phong Bạch cứu giúp những nạn dân mà bọn họ gặp ven đường, chém gϊếŧ yêu thú và loạn binh. Mặt khác, bởi vì biết sức lực của một mình mình thì sẽ rất nhỏ yếu nên y đã dần phát triển thể lực của Tứ Châu Minh sang cả năm châu còn lại, dần dần liên kết Tán tu khắp Cửu Châu lại thành một mạch.
Hành động này không chỉ mang lại lợi ích cho Tán tu và tông môn mà thậm chí cũng giúp cả người phàm. Tông môn sẽ không phải ngày đêm lo lắng Tán tu chó cùng rứt giậu muốn đồng quy vu tận với mình; Bởi vì tu giả đã sống hòa thuận với nhau nên những nơi có yêu thú sẽ được tu giả chung sức diệt trừ, giúp người phàm tránh được cảnh hở chút là táng thân vào miệng thú.
Mặc dù Phong Bạch có tính toán khác nhưng cũng không hề phản đối lựa chọn của Phong Thiệu, chỉ bởi vì thúc thúc hắn thích làm vậy. Hai người tâm đầu ý hợp, cùng bầu bạn suốt cứu thế suốt một đường. Xuân đi thu đến, năm tháng như nước chảy, chẳng biết thời gian năm năm đã trôi qua từ khi nào.
Suốt năm năm này, mặc dù Hàn châu trong cơ thể Phong Thiệu trấn áp yêu độc đồng thời cũng khiến tu vi của y tạm ngưng trệ, nhưng Phong Bạch lại tiến bộ cực nhanh. Trong số yêu thú mà bọn họ gặp phải lúc du ngoạn thì yêu thú cấp cao có số lượng khá ít, tuy đôi lúc cũng bị rơi vào tình thế nguy hiểm nhưng hầu như không phải là đối thủ của đôi phu phu một Nguyên Anh chân nhân, một Kim Đan viên mãn này. Số lượng nhiều nhất vẫn là yêu thú cấp thấp hoặc đôi lần thú triều*, những thứ đó khiến Phong Bạch không có quá nhiều cơ hội để rèn luyện. (Thú triều: yêu thú tập hợp với số lượng rất lớn trong khoảng thời gian ngắn để cùng tấn công một địa điểm nào đó, giống như thủy triều dâng lên vậy.)
Tuy nhiên, ngay cả như vậy thì Phong Bạch vẫn lĩnh ngộ được một tầng kiếm ý mới.
Hiện giờ kiếm ý của Phong Bạch đang là tam trọng thiên, nếu hắn lĩnh ngộ thành công thì sẽ đột phá lên tứ trọng thiên. Kết Anh chưa đến mười năm mà đã có thể đột phá kiếm ý tứ trọng thiên, đủ thấy thân thể thánh thú trong truyền thuyết chẳng phải là hư danh.
Bị sóng sau xô sóng trước khiến Phong Thiệu hơi thấy hâm mộ và ghen tị, dù sao thì y cũng chỉ bị phong ấn tu vi chứ không hề bị phong ấn kiếm ý. Mấy năm nay y và Phong Thiệu như hình với bóng, cùng gϊếŧ yêu thú giống nhau, cùng cứu người giống nhau, cũng phải phải cơ duyên như nhau nhưng Phong Bạch có thể lĩnh ngộ còn y thì không. Điều này vốn không thể trách yếu tố bên ngoài mà chỉ có thể kiểm điểm bản thân thôi.
Tất nhiên điều ấy cũng cho thấy sự lĩnh ngộ của Phong Bạch là đáng quý đến mức nào, hắn không thể chậm trễ nữa.
Bởi vì sau khi lĩnh ngộ còn cần phải hao tâm tổn trí để suy xét, bằng không thì chưa chắc sẽ lĩnh ngộ được thấu đáo. Đó là lí do phần lớn đệ tử của Côn Luân sẽ lựa chọn quay về kiếm trận trong tông để mài dũa thêm, có kiếm ý của đại năng Thượng Cổ giúp đỡ thì sẽ mang đến rất nhiều lợi ích cho sự lĩnh ngộ của bản thân. Vì thế Phong Thiệu đã liên tục thúc giục đối phương lên đường sớm. Phong Bạch tự biết với ngộ tính của bản thân thì lần này đi nhanh nhất là mấy tháng, lâu nhất phải nửa năm mới có thể hoàn toàn đột phá được, vì vậy đã quấn lấy thúc thúc để dây dưa không ngớt.
Quấn quít mấy ngày liền, sau đó Phong Bạch mới bắt đầu miễn cưỡng lên đường, Phong Thiệu thì tu luyện Ma Giáp trong sự buồn bực, một lòng một dạ muốn thăng cấp lên tầng mới. Tên súc sinh này càng ngày càng không biết kiềm chế, nếu y không có máu trâu thủ dày thì sớm muộn gì cũng bị hắn song tu đến chết trên giường. Đấy thật sự không phải là kiểu chết vẻ vang gì cho cam.
Tuy nhiên y tu luyện Ma Giáp lại chẳng hề có bất cứ sự đột phá nào. Thật ra từ lúc hai người hợp tịch đến bây giờ, y vẫn luôn biết tâm cảnh của mình không còn vững chắc như trước nữa, càng sống trong hạnh phúc mỹ mãn lại càng khiến tâm cảnh của y rung chuyển bất an. Người tu luyện chú trọng nhất là tâm phải tĩnh như nước, nếu ngay cả việc bình tĩnh còn không làm được thì sao có thể mong tu luyện tiến bộ.
Trong lòng Phong Thiệu cũng mơ hồ biết được lý do nên không cố ép mình tu luyện. Y rời khỏi động phủ của Phong Bạch rồi bước vào thế tục.
Động phủ của Phong Bạch nằm ở Từ Ký Châu. Hiện giờ ngoài trừ Tán Tu minh ở Từ Ký châu, Thanh Duyệt châu, Dự Kinh châu và Tây Hòa châu thì ngay cả Tán Tu minh ở Lương Ung châu của Phiêu Miểu tông cùng với Đại Hoang châu, Bình Nhung châu của Bão Phác cũng được nhét vào bản đồ của Tứ Châu minh, có thể nói đã trở thành Thất Châu minh rồi.
Tất nhiên việc y có thể bành trướng một cách thuận lợi như vậy thì hiển nhiên không thể thiếu sự giúp đỡ của các đại tông ở nơi đó. Phiêu Miểu có Bồng Khâu dưới lớp Đan Tử làm tông chủ, phần lớn đệ tử thân truyền của Bão Phác do Phong Bạch điều khiểu, cho nên làm việc cũng tiện hơn nhiều.
Chỉ trong vòng năm năm ngắn ngủi như vậy mà Tán Tu minh ở các châu đã nhanh chóng hợp lại thành một thể.
Còn lại hai châu là Thương Trạch châu và Dương Hạ châu. Phong Thiệu bay thẳng từ Từ Ký châu xuống phía nam, xuyên qua Tây Hòa châu để đến Dương Hạ châu. Tuy nhiên lúc y bay được nửa đoạn đường lại chợt nhìn thấy một đám Đương Hộ đang đuổi bắt những người dân chạy nạn, tiếng kêu thảm thiết vang vọng khắp nơi, máu thịt bắn tung tóe.
Đương Hộ* là một loại yêu thú nhị giai, hình dáng tựa chim trĩ, chúng bay bằng râu, vẻ ngoài cực kì quái dị. Phong Thiệu nhíu mày đánh ra một kiếm, lập tức chém rớt ba bốn con từ không trung rơi xuống dưới đất. Mấy chục con còn lại thấy kẻ địch quá mạnh, cho dù chúng chưa mở linh trí nhưng vẫn thông minh hơn những loại động vật bình thường rất nhiều,cho nên chẳng mấy chốc đã bỏ chạy toán loạn hết.
(*Hình ảnh của Đương Hộ: nguồn Baidu)
Phong Thiệu không đuổi heo mà đáp xuống đất để cứu giúp những nạn dân bị thương. Bởi vì thường xuyên cứu người nên hiện giờ y đã tích lũy rất nhiều kinh nghiệm, trong túi gấm của y không chỉ tích trữ vài loại linh dược cấp thấp mà phàm nhân có thể dùng được, thậm chí còn chuẩn bị sẵn cả một ít thuốc trị thương của người phàm. Phong Thiệu chỉ có một mình nên những việc làm được rất hữu hạn, cũng may còn có Tiểu Hợp Tiểu Hoan giúp đỡ phần nào.
Lại nói tiếp, ngày đó Tiểu Hợp Tiểu Hoan bị y dùng để cầm chân Thanh Dương nhằm kéo dài thời gian chạy trốn, cuối cùng lại bị gã chém trọng thương. Nếu không nhờ Hà Loan có thiên phú bẩm sinh trên phương diện linh lực, linh dược, cộng thêm bí kíp tổ truyền của Hà gia thì có lẽ hiện giờ hai vật nhỏ này đã chẳng còn được nhìn thấy ánh sáng mặt trời nữa.
Có điều dù đã cứu lại được nhưng thực lực của bọn chúng vẫn bị tổn thương nghiêm trọng, có lẽ phải mất đến vài thập niên mới có thể hồi phục về như lúc đầu. Phong Thiệu cũng không vội vã để bọn chúng kháng địch, ngược lại coi chúng như những tiểu đạo sĩ để sai vặt linh tính, tựa như lúc này y đang để chúng đưa thuốc cho mọi người trị thương.
Tốn khoảng hơn hai ngày, lại nghe thấy nguyên nhân bọn họ chạy nạn bời vì quân chủ nước đó muốn ép họ sung binh cho nên y đã giúp họ tránh né truy binh rồi đưa đoàn người đến khu vực biên giới. Lúc này mọi người đều đồng loạt quỳ xuống để cảm tạ ơn đức của y, họ hỏi: “Không biết tôn hào của Tiên Quân là gì? Nhận đại ân đại đức của Tiên Quân, nếu ngày sau chúng tôi có thể giữ được tính mạng mà sống tạm qua ngày thì chắc chắn sẽ xây miếu lập bia để ghi nhớ ơn đức của ngài.”
“Tệ hào Cửu Anh.”
Phong Thiệu cứ tưởng mình đã có thể thành công rút lui, nhưng lúc đang muốn ngự kiếm bay đi lại bỗng thấy một thiếu niên chạy vọt tới. Cậu quỳ gối dưới chân y rồi hô to: “Tiên Quân, cầu xin ngài hãy đưa ta theo với!”
Phong Thiệu đã quen với cảnh này. Thế sự nhiễu nhương, đừng nói người phàm khó sống, cho dù là tu giả bình thường cũng chẳng tốt lành gì hơn. Có không ít người phàm muốn bái sư gia nhập Tu Chân giới để cố gẳng bảo vệ bản thân, đây cũng là chuyện bình thường. Tuy nhiên số người có linh căn lại cực kỳ ít ỏi, vì thế y nâng đối phương dậy rồi nói: “Nơi này cách Tán Tu minh không xa, các ngươi sống ở gần đây nên tất nhiên sẽ được bọn họ bảo vệ, không phải lo lắng về loạn binh và yêu thú nữa.”
Thiếu niên kia ngẩng đầu để lộ vẻ kiên nghị và sự thù hận: “Toàn tộc đã vong mạng chỉ còn sót lại có mình ta, ta chẳng còn mặt mũi nào để sống tiếp. Cho dù có sống thì cũng thề phải báo thù cho tộc nhân, khiến tên quốc sư chuyên lạm sát người vô tội kia nợ máu phải trả bằng máu.”
Trong lòng Phong Thiệu khẽ run lên, y nói: “Ngươi vẫn còn là một đứa nhỏ, sao có thể địch lại được quốc sư? Đừng nói đến báo thù, chẳng qua chỉ là uổng phí mạng mà thôi… ”
Y còn chưa dứt lời thì trong số lưu dân đã có một vài vị trưởng giả tiến lên khuyên nhủ thiếu niên này, bọn họ nói: “Thiện ác luân hồi, báo ứng khó chịu, quốc sư tàn nhẫn như vậy sớm muộn gì cũng bị ông trời trừng phạt.” “Cho dù ngươi không gϊếŧ gã thì cũng sẽ có ông trời trừng trị gã!” “Gϊếŧ người ắt phải đền mạng, huống chi quốc sư còn tận diệt hơn ngàn mạng người của mười thôn chúng ta… Gã ắt sẽ phải gặp báo ứng thôi! Nhất định là như vậy… ”
Thiếu niên gào khóc, những vị trưởng giả kia cũng rơi lệ không ngừng, những người lưu dân còn lại chợt nghĩ đến cảnh chẳng còn cơ hội gặp lại người thân, vợ chồng, con cái của mình nữa thì cũng lặng lẽ rơi lệ. Không khí bi thương chợt bao trùm toàn bộ đám người.
Phong Thiệu cúi đầu, rốt cuộc sau khi chạy trốn khỏi nơi ấy mới phát hiện sắc mặt của mình đã đỏ bừng, tâm cảnh cũng chấn động.
Mấy năm nay, chỉ khi y dốc hết tâm tư để cứu giúp người khác thì cõi lòng mới được thanh thản đôi phần, cũng giảm bớt rất nhiều sự lo lắng, bất an. Có điều chính Phong Thiệu cũng hiểu rõ, ly nước đã hắt đi rồi thì chẳng thể hớt lại được nữa. Cho dù số người y cứu giúp đỡ hơn xa số người y gϊếŧ chết trong đêm hôm đó, nhưng dù sao người đã chết rồi thì sẽ chẳng thể sống lại được nữa, bọn họ đều là những người vô tội.
Cho dù Tu giới khác với xã hội pháp trị ở kiếp trước, nơi này lấy kẻ mạnh làm vua, nhưng rốt cuộc y vẫn chẳng phải là Thanh Thành tôn giả! Y không có suy nghĩ của nhân vật phản diện rằng thà phụ cả thiên hạ chứ không để thiên hạ phụ ta. Nếu chỉ là tính mạng của một vài người thì có lẽ còn gợn sóng lăn tăn, nhưng nếu là hàng trăm, hàng ngàn người thì y sẽ không thể chịu đựng nổi. Một khi nó vượt qua sự chịu đựng của y thì ắt sẽ lan đến tâm cảnh, thậm chí là sinh ra Ma niệm.
“Thiện ác luân hồi, báo ứng khó chịu…” Phong Thiệu lầm bầm lầu bầu, sau đó đi tới Dương Hạ châu với vẻ bất an.
Nơi đây thuộc phạm vi quản lí của Bồ Đề tự, muốn phát triển thành Cửu Châu minh thì đã không còn dễ dàng như lúc trước nữa. Dù sao trong Bồ Đề tự không có Bồng Khâu cũng chẳng có các đệ tử thân truyền bị Khôi Lỗi lệnh khống chế.
Tuy nhiên Bồ Đề tự có Từ Giác, Phong Thiệu biết rõ cho dù trong nguyên tác hay là hiện thực thì Từ Giác luôn là một người rất từ bi. Huống chi chuyện Tứ Châu minh lúc trước cũng được ông tán thành, khen ngợi, chính vì thế lần này y đến Dương Hạ châu cũng là để bàn luận với ông ta. Mặc dù có thể dùng phi hạc truyền thư để bày tỏ mong muốn nhưng như vậy lại có vẻ không đủ chân thành, mặt khác thân phận Ma tu của y cũng không thích hợp để liều lĩnh đi đến Bồ Đề tự.
Từ Giác đã dặn y hãy đợi trong mội ngôi chùa ở chỗ của người phàm, mặc dù hiện nay thiên hạ đang đại loạn nhưng hương khói trong chùa vẫn rất thịnh, là một trong những nơi náo nhiệt nhất của thành trấn. Phong Thiệu mặc trang phục đạo sĩ, mang phong thái của tiên nhân nhưng lại không có quá nhiều người chú ý. Mỗi người đến đây đều cực kỳ thành kính, bọn họ chuyên tâm dâng hương cầu nguyện, dập đầu trước tượng Phật để cầu mong được bình an.
Phong Thiệu ngồi xếp bằng trên chiếc nệm hương bồ được đặt ở hậu viện của chùa, chưa tới thời gian một nén nhang thì đã thấy có tường vân bay đến. Người đi xuống mặc một thân áo cà sa, trong tay cầm pháp trượng của tăng nhân, tuấn nhan mỉm cười, chính là Từ Giác thượng sư.
“Từ Giác sư thúc.” Phong Thiệu đứng dậy chào hỏi. Bởi vì lúc trước đã xảy ra rất nhiều chuyện khiến bọn họ không gặp lại trong vài năm, hiện giờ chợt cảm thấy đôi phần xa lạ.
Từ Giác xoa tay cười rồi nói: “Ba năm trước, ngay cả điển nghi kế nhiệm tông chủ của ta mà Tiểu Thiệu cũng không đến dự. Ta cứ tưởng ngươi sẽ tránh né ta suốt cả đời cơ.”
Phong Thiệu nghe thấy ông đã đổi xưng hô từ “Thiệu Nhi” về lại “Tiểu Thiệu” như lúc ban đầu thì tảng đá lớn ở trong lòng cũng được buông xuống, sau đó lại nghe thấy giọng điệu phóng khoáng của ông y hệt với năm đó khiến y không khỏi thấy thoải mái hơn.
“Sư thúc tha lỗi, vốn là do tự ta cảm thấy cực kỳ hổ thẹn. Sư thúc không những giúp ta áp chế Huyết La trong cơ thể mà còn nhiều lần đưa ta vào các bí cảnh trong Bồ Đề tự, thậm chí suýt nữa đã giúp ta vào thánh địa hoa cảnh Phân Đà Lợi để tìm cách diệt trừ tận gốc Huyết La…”
“Nếu biết để ngươi đi tìm con Bạch Hổ kia sẽ một đi không trở lại thì ta đã trói ngươi ném vào hoa cảnh Phân Đà Lợi từ lâu rồi, biết đâu sẽ thật sự có tác dụng với Huyết La. Đáng tiếc bây giờ dù có hữu dụng hay vô dụng thì đã chẳng thể làm gì được nữa rồi. Sáu năm trước Bồ Đề ta bị mất trộm tàn quyển, kẻ tặc không thể phá hủy tông mạch như mong muốn nên đã khiến hoa cảnh Phân Đà Lợi đứng mũi chịu sào. Sư huynh ta một lòng đặt trên tàn quyển nên đã chẳng thể cứu hộ kịp thời, cuối cùng khiến linh khí của thánh địa vạn năm bị tổn thương nghiêm trọng, Thần Tích cũng biến mất từ ấy.” Từ Giác thở dài.
Phong Thiệu cũng cả kinh “Không ngờ còn có chuyện như vậy? Thế chẳng phải rất…”
Nhưng lời cảm khái này còn chưa dứt thì đã thấy Từ Giác xua tay, ông trêu tức quay lại chủ đề trước đó: “Ngươi nói không đến do hổ thẹn chẳng qua là lấy cớ thôi, tưởng ta không biết ngươi bị con Bạch Hổ kia quấn chặt chắc? Ta đoán hôm nay ngươi có thể đặt chân đến nội cảnh của Bồ Đề tự, nếu không phải hắn đang bế quan thì chắc chắn là hắn đang bế quan.”
Đúng là Phong Thiệu hành động tùy theo hoàn cảnh, nhưng bị một câu của ông chọc thủng sự thật khiến y không khỏi hơi xấu hổ, cũng may trên mặt vẫn chưa để lộ điều gì. Sau khi ôn hòa đánh thái cực* với nhau, Phong Thiệu bắt đầu nghiêm chỉnh nói về chuyện chính. (Đánh thái cực ý chỉ sự đưa đẩy qua lại)
Hai người thương nghị xong chuyện liên quan đến Cửu Châu minh, đề tài của Từ Giác lại chuyển lên người Phong Thiệu. Ông cười cảm khái: “Chỉ trong năm năm ngắn ngủi mà ngươi đã biến Tứ Châu minh thành Thất Châu minh, giúp Tán tu và tông môn giảm bớt đấu tranh thương vong, người phàm cũng có thể tìm được nơi nương tựa, tất cả mọi chuyện đều nhờ có công lao của ngươi. Ta vẫn nhớ rõ khi ấy, ngươi vì muốn ta hết vọng nên đã chửi rủa bản thân thậm tệ, nói ngươi chỉ là một kẻ dối trá thích làm ra vẻ, một kẻ tiểu nhân ích kỷ thích đùa bỡn tâm kế với người khác. Nếu ai cũng có thể xấu xa như ngươi thì ta cầu khẩu tất cả mọi người trên thế gian này đều như vậy, thế thì Cửu Châu mới cỏ thể sớm ngày yên ổn, thái bình.”
Được một người cao thượng thực sự tâng bốc như vậy khiến Phong Thiệu vô cùng hổ thẹn, lúc y đang muốn mở miệng thì Từ Giác lại nói tiếp: “Ngay cả một tên Ma đầu có nghiệp chướng sâu nặng, đã lạm sát hơn vạn người vô tội, nhưng kể từ khi trở thành đạo lữ của ngươi thì cũng biết quay đầu để giúp ngươi cứu thế. Đủ thấy tâm tính của ngươi cực kỳ lương thiện… ”
Đối phương càng khen ngợi thái quá càng khiến sự lo lắng thấp thỏm trong nội tâm của Phong Thiệu mãnh liệt hơn. Cuối cùng y vẫn bộc bạch trong sự xấu hổ: “Sư thúc coi trọng ta quá rồi, Thiệu thật sự rất hổ thẹn.” Sau đó Phong Thiệu đã tóm tắt lại chuyện ngày ấy, bởi vì muốn giúp Phong Bạch Kết Anh thuận lợi nên y đã tạo sát nghiệp cho Từ Giác nghe.
Ban đầu Từ Giác hơi trầm mặc, sau đó ông nhìn Phong Thiệu chăm chú rồi nói: “Chính vì thế nên trong lòng tiểu Thiệu mới nảy sinh khúc mắc?”
Phong Thiệu cười khổ: “Con người chứ nào phải cỏ cây, chẳng có ai vô tình cả. Phải chăng là do Thiên Đạo hữu thường, nhân quả báo ứng nên ta mới sinh ra Tâm Ma như vậy?”
Từ Giác sửng sốt một chút rồi lập tức nở nụ cười: “Ta không cho rằng đây là Tâm Ma.”
Phong Thiệu khó hiểu, hỏi với vẻ khiêm tốn: “Mong được sư thúc chỉ bảo.”
Từ Giác khẽ lần chuỗi tràng hạt trên tay, ông nói một cách chậm rãi: “Ngươi đã đột phá cảnh giới ‘Ngã Chấp’ nên chắc cũng biết tâm cảnh tiếp theo của Thiền Tông chính là ‘Pháp chấp’. Vậy ‘Pháp Chấp’ là gì?”
Bởi vì cuộc đời vốn nhiều bấp bênh sóng gió nên tâm thái mới là thứ quan trọng nhất. Sức mạnh bên ngoài chỉ như cây trúc rỗng ruột, nội tâm mạnh mẽ mới là viên gạch đặc ruột, cây trúc va đập với viên gạch thì cây trúc sẽ nứt. Cho nên sau khi tự khám phá ra “Ngã Chấp”, Phong Thiệu đã đặt một phần tâm tư của mình vào Phật pháp để củng cố viên gạch của mình.
Hơn nửa năm bầu bạn với Từ Giác đã giúp Phong Thiệu rất nhiều, lúc này y cũng đối đáp trôi chảy: “Chấp những pháp có hình dáng thực thể, gọi là Pháp chấp.”
Từ Giác gật đầu nói tiếp: “Pháp chấp tạo thành do sự thiếu hiểu biết về nhân duyên giữa các Pháp*, duyên khởi vô tính, biến hóa khôn lường, nếu cứ cố chấp với các Pháp thì sẽ trở thành vọng kiến*. Trong lòng Tiểu Thiệu mang suy nghĩ ‘Thiên Đạo hữu thường, nhân quả báo ứng’, đây có khác gì một ‘Pháp’ trong Pháp Chấp?”
(*Theo Phật Quang đại từ điển, Pháp có nghĩa là “Tất cả sự vật hữu hình gọi là Sắc Pháp, vô hình gọi là Tâm Pháp, có thể tánh gọi là Hữu pháp, không thể tánh gọi là Vô pháp. Các pháp sắc, tâm, hữu, vô gọi chung là Pháp giới”)
(*Vọng Kiến: Sự hư vọng phân biệt không đúng với sự thật, cho những thứ hư giả là thực—False views of reality—Taking the seeming as real – Nguồn: Từ Điển Phật Học Online)
“Thế nhưng, sao “Thiên Đạo hữu thường, nhân quả báo ứng” lại là vọng kiến cho được? Những lời này đâu có sai?” Phong Thiệu khó hiểu.
Từ Giác lắc đầu nói tiếp: “Một khi ngươi kiên trì nhận định nó là đúng, đó đã là vọng kiến rồi. Cố chấp với tất cả các Pháp, cho rằng chúng có thật nhưng lại không hề biết hết thảy vạn vật đều từ biến hóa mà sinh ra thay đổi. Cái gọi là ‘Các pháp sinh do duyên, các Pháp diệt do duyên’, nếu cứ cố chấp với ‘Pháp’ thì ắt sẽ trở thành ‘Sở tri chướng’, từ đó nảy sinh cảm xúc trước những sinh tử biến hóa của tam giới.”
(Sở tri chướng: là chướng ngại do những cái hiểu biết có sẵn trong tâm trí của chúng ta tạo ra. Dễ hiểu hơn là chúng ta luôn bám chặt vào những cái thấy, biết của mình, rồi cho rằng những điều đó là đúng nên không chịu tiếp thu những cái mới, những cái đi ngược lại sự hiểu biết, niềm tin của chúng ta)
Ông ngừng lại một chút, nâng tay biến ra một đạo kinh văn pháp chú rồi điểm nó vào trong mi tâm của Phong Thiệu.
Phong Thiệu lập tức cảm thấy mi tâm của mình chợt đau đớn dữ dội, nhưng sau đó lại thấy nhẹ nhõm, yên tâm hơn.
Từ Giác nhìn y rồi nói: “Dạo gần đây tiểu Thiệu đã bị thứ Chấp Niệm này giày vò đến mê man, khổ sở nhỉ?”
Phong Thiệu rũ mi mắt, y cười như không cười: “Đúng là chẳng có thiên phú làm Ma đầu, càng được sống trong sự an ổn viên mãn thì lại càng cảm thấy như đang chịu tội. Không, phải nói là luôn lo lắng một ngày nào đó báo ứng sẽ ập đến khiến tất cả những thứ bình yên tốt đẹp trước mặt tan thành mây khói, vì thế mới luôn cảm giác lo lắng hãi hùng, chột dạ bất an. Cho nên ta lao đầu vào cứu thế cũng chỉ vì tư tâm của mình thôi, tựa như để an ủi bản thân rằng càng cứu được nhiều người thì càng có thể giảm bớt tội nghiệt, cũng giữ cho những ngày tháng yên bình này được dài lâu. Thế nhưng trong lòng ta cũng tự biết rõ, những người ta cứu sống nào phải những người đã bị ta gϊếŧ. Nên nhận lấy quả báo, đúng là nên nhận lấy quả báo.”
“Tiểu Thiệu thử nghe xem.”
Từ Giác nói với vẻ trầm ngâm: “Ngươi đã coi ‘Thiên Đạo hữu, nhân quả báo ứng’ là thật, cũng cố chấp với điều này cho nên mới sinh ra lòng phân biệt, sự yêu ghét. Nếu nó phù hợp với tâm ý của ngươi thì ngươi lại nảy sinh lòng tham, nếu nó không hợp với tâm ý của ngươi thì ngươi lại nảy sinh sự sân giận. Lúc thì ngươi tham muốn những ngày tháng tốt đẹp trước mắt, lúc thì ngươi căm hận sợ ngày sau sẽ gặp báo ứng. Bởi vì pháp Chấp Ngã nên đã sinh ra cả hai chướng ngại như vậy.”
Trong lòng Phong Thiệu cảm thấy xúc động nhưng vẫn chưa hiểu thấu triệt, y hỏi: “Vậy làm thế nào để phá Chấp? làm thế nào để giải Chướng?”
“Tất cả các Pháp đều là đương thể tức không*, trong lòng ngươi đã nhận định ‘Thiên Đạo hữu thường, nhân quả báo ứng’ cũng như thế. Ngươi sinh ra ‘Pháp chấp, từ đó tạo thành ‘Sở tri chướng’.‘Sở tri’ là những thứ ngươi đã biết, đã nhận định từ trước, nhưng nếu bị cản trở thì cũng thành không biết.” Từ Giác gật đầu suy nghĩ trong chốc lát, rồi mới nói: “Ngươi chỉ biết Thiên Đạo hữu thường nhưng lại không biết Thiên Đạo vô thường.”
(*Nghĩa là trong tất cả các Pháp, cái vật thể hiện đang tồn tại cũng là không có thật, chứ không phải đợi cho tới lúc nó bị hoại diệt mới là không. Ví dụ: nhiều người vẫn cho là vật thể hiện tại là có thật, chẳng hạn cái xe hơi mà mình đang sử dụng là có thật, phải trải qua một thời gian lâu sau, ví dụ sau 100 năm hoặc 1000 năm, khi cái xe hơi ấy đã bị hoại diệt, thì nó mới trở thành không. Tại sao cái xe hơi chúng ta đang đi cũng là không có thật ? Bởi vì xe là một cá thể vật chất cấu tạo bằng phân tử, nguyên tử vật chất như sắt, đồng, kẽm,v.v… Mà nguyên tử cấu tạo bằng các hạt cơ bản như quark, electron, các hạt tạo ra khối lượng như higgs boson, các hạt tạo ra lực truyền dẫn như boson W, boson Z v.v… Mà tất cả các hạt cơ bản này theo như nhận định của nhà khoa học trứ danh Niels Bohr, đều là hạt ảo. – Nguồn: Duy Lực Thiền)
“Ngươi không thấy, Ma Tu gϊếŧ người ăn thịt lại vẫn có kẻ được phi thăng. Quốc chủ người phàm áp sưu cao thuế nặng nhưng vẫn được sống thọ chết già, còn dân chúng bình thường chẳng hề làm việc ác lại hay có người đột tử, đủ thấy Thiên Đạo vô thường.” Ông nhìn vẻ mặt vẫn còn khó hiểu của Phong Thiệu bèn nói tiếp: “Cho dù Thiên Đạo vô thường, nhưng ta và ngươi tu hành không phải vì Thiên Đạo, cũng chẳng phải vì quá báo, mà vì bản tâm của mình. Kẻ ác có bản tâm hướng ác, người thiện có bản tâm hướng thiện chứ chẳng phải do bị Thiên Đạo và quả báo dày vò mới thành. Ngươi phải hiểu rõ bản tâm của mình là gì thì mới có thể khám phá ra Pháp Chấp, từ đó xóa bỏ Sở Tri Chướng.”
Phong Thiệu như đã ngộ ra điều gì.
Thiên Đạo khi thì hữu thường khi thì vô thường nhưng bản tâm của y lại chắc chắn như thiết, lòng hướng thiện thì mới được thiện, chứ không phải bị ngoại cảnh tác động. Đến khi ấy cho dù là tiếp tục tu hành trong thế tục hay cứu người giữa cơn nước sôi lửa bỏng, hoặc trảm yêu trừ ác, hoặc đối diện với Phong Bạch, y sẽ không còn sự phiền lão lo được lo mất như trước nữa.