- 🏠 Home
- Linh Dị
- Trinh Thám
- Pháp Y Tần Minh - Quyển 4: Kẻ Dọn Rác
- Chương 13: Vụ án thứ 3 - Người khổng lồ màu xanh (4)
Pháp Y Tần Minh - Quyển 4: Kẻ Dọn Rác
Chương 13: Vụ án thứ 3 - Người khổng lồ màu xanh (4)
Công tác khám nghiệm bề mặt tử thi được tiến hành một cách từ tốn, trưởng phòng Hoàng lo lắng ra mặt. Ông Lý hói đúng là bị hói trên đỉnh đầu, nhưng vì đội mũ bảo hộ lao động suốt thời gian dài nên da trên đỉnh đầu rất trắng, khác hẳn với những bộ phận khác của cơ thể thường xuyên phơi ra dưới nắng mặt trời. Da toàn thân của nạn nhân đen thui, vì mất máu đột ngột với số lượng lớn đã tạo thành các vết hoen tử thi rất nhạt, thậm chí những vết hoen tử thi gần như không tồn tại trên nền da đen cháy.
Trên người thi thể mặc chiếc sơ mi cũ rách, tay áo xắn lên, cúc ngực mở phanh toàn bộ, để lộ vòm ngực thưa thớt vài sợi lông. Phía dưới mặc chiếc quần thụng bạc màu, lại còn dính vài vết bùn.
“Thường ngày ông ta luôn có thói quen mở phanh cúc ngực như thế này sao?” Trần Thi Vũ hỏi.
Trưởng phòng Hoàng lắc đầu: “Khi điều tra, chúng tôi không nhận được phản ánh gì về điều này, mọi người chẳng mấy ấn tượng về cách ăn mặc của ông ta. Vì thường ngày ông ta luôn luôn đội mũ bảo hộ lao động giống như công nhận vừa từ công trường về, nên sự tập trung của mọi người đều dồn vào chiếc mũ bảo hộ lao động.”
Cúc áo trước ngực mở phanh khiến da trên toàn bộ khoang ngực và khoang bụng đều dính máu. Máu đông kết thành các mảng máu đóng vảy. Khi tiến hành chụp cả chỉnh thể, chúng tôi đã nhìn sơ qua bề mặt da của thi thể.
“Sao lại thế này nhỉ? Chảy bao nhiêu máu như thế mà sao không nhìn thấy vết thương?” Đại Bảo thắc mắc.
Đúng là chúng tôi không nhìn thấy vết ngoại thương rõ rệt ở bề mặt da.
“Vội gì!” Tôi thấy công tác chụp ảnh đã hoàn thành liền tìm một chiếc khăn mặt ướt, chậm rãi làm sạch các vết máu dính trên thi thể.
Sau khi toàn bộ các vết máu đóng vảy được lau sạch sẽ, phần da ngực của thi thể dần dần trở nên rõ ràng. Có thể thấy thường ngày nạn nhân không có thói quen phanh cúc ngực, bởi vì phần da ngực khác hoàn toàn với phần da ở cánh tay.
“Lẽ nào chỉ khi ngủ ông ta mới phanh cúc ra ư?” Tôi tự lẩm bẩm.
“Ô! Quả nhiên ở đây có một vết thương.” Đại Bảo kêu lên, “Nhưng nó rất nhỏ.”
Đúng thế thật, ở vị trí giữa xương sườn thứ ba và xương sườn thứ tư có một vết đâm cứa rất nhỏ. Sở dĩ gọi là vết đâm cứa là bởi sau khi đâʍ ѵậŧ nhọn vào nạn nhân, hung thủ đã thực hiện thêm động tác cứa mạnh lúc rút dao ra. Với vết thương như vậy, bác sĩ pháp y khó lòng phán đoán chính xác độ rộng của lưỡi hung khí.
Miệng vết thương này khá hẹp, cho dù có động tác cứa nhưng vẫn có thể nhận ra độ rộng của lưỡi hung khí rất hẹp.
Mọi người đều cúi đầu suy nghĩ, tôi cầm dao phẫu thuật lanh lẹ rạch lớp da ở l*иg ngực của người chết, tách các múi cơ ra, cắt sụn sườn mềm, sau đó lấy xương ức và phần sụn sườn vừa cắt ra ngoài, màng tim màu vàng và trung thất liền hiện ra, ngay cạnh đó là hai lá phổi đen ngòm.
“Lúc còn sống, ông ta có thường xuyên hút thuốc không?” Trần Thi Vũ hỏi.
Trưởng phòng Hoàng lắc đầu.
Tôi nói: “Rất khó phán đoán một người hút thuốc hay không thông qua việc nhìn màu sắc của tạng phổi. Về phương diện này, mức độ ô nhiễm không khí còn ảnh hưởng đến phổi ghê gớm hơn là hút thuốc nhiều.”
Trong lúc nói câu này, chúng tôi đã thấy rõ tim của thi thể. Trên tâm thất trái có một vết rách rất nhỏ, vị trí đối xứng với màng tim có vết nứt rách lớn hơn vết trên tim rất nhiều vì nó bị đâm cứa. Bởi vậy máu từ miệng vết thương nhỏ này bắn túa ra, không hề bị sự cản trở của màng tim. Máu tràn một lượng lớn vào màng tim gây hiện tượng chèn ép tim.
“Miệng vết thương đi xuyên qua vách tâm thất, xuyên qua vách ngăn liên thất, nhưng vẫn chưa xuyên hết cả tạng tim.” Tôi nói, “Con dao này không ngắn đâu.”
“Mà anh nhìn xem này!” Đại Bảo lật da ngực của nạn nhân, nói, “Từ miệng vết thương trên da có thể thấy hung khí này rất mảnh, rất giống với hung khí của vụ án trước.”
Trong vụ án Tứ “đần” bị sát hại, hung thủ dùng cách cứa cổ để gϊếŧ nạn nhân, còn vụ này thì đâm vào tim, tuy vết thương của hai nạn nhân ở hai vụ án khác nhau nhưng dường như hung thủ đều cùng sử dụng một loại hung khí.
“Tuy hung khí không quá dài nhưng đủ để đâm vào tận tim, thì chí ít nó cũng phải dài cỡ bảy, tám centimet.” Tôi nói.
Đại Bảo gật gù: “Mà sau khi vết thương ở ngực khép miệng lại như cũ, ta vẫn có thể nhìn thấy ở góc vết thương có hiện tượng như thể bị xé rách.”
Tôi hơi run, vội vàng lấy miếng gạc lau sạch khu vực xung quanh miệng vết thương, phấn khích nói: “Chính xác! Đúng là nó bị rách.”
“Rách thì sao?” Lâm Đào đứng cạnh tò mò hỏi.
Trưởng phòng Hoàng đáp thay tôi: “Nếu vết thương do vật sắc gây ra thì góc vết thương phải sắc nét, nghĩa là nó bị cắt ra chứ không phải bị xé ra. Nếu vết thương giống như vết thương này, bờ vết thương trơn nhẵn, nhưng góc vết thương lại có hiện tượng như bị xé rách thì chỉ có thể nói hung khí đó có mặt trước là lưỡi, mặt sau không có lưỡi.”
Trưởng phòng Hoàng vừa nói xong, chúng tôi bất giác mà cùng nhìn vào con dao phẫu thuật mà mình đang cầm trong tay.
Đoạn trước của dao phẫu thuật là lưỡi dao sắc, còn đoạn sau là cán dao, không có lưỡi. Dao phẫu thuật rất mỏng nhưng vô cùng sắc. Thông thường dao phẫu thuật dài hơn dao gọt hoa quả một chút, độ rộng của lưỡi dao cũng rất hẹp.
Mọi đặc điểm nhận dạng đều cho thấy hung khí mà hung thủ sử dụng chính là dao phẫu thuật.
“Dao phẫu thuật là dụng cụ cứu người chứ không phải hung khí gϊếŧ người.” Trưởng phòng Hoàng nói, “Nếu không tìm được vị trí chính xác thì hung thủ không thể một dao hạ sát nạn nhân được!”
“Nhưng dao phẫu thuật giống như một loại biểu tượng.” Tôi trầm ngâm nói.
“Đeo găng tay phẫu thuật của bác sĩ pháp y, đi bọc giày của bác sĩ pháp y, dùng dao phẫu thuật của bác sĩ pháp y.” Lâm Đào nói, “Hung thủ muốn nói gì với chúng ta đây?”
“Lại còn ba chữ ‘Kẻ dọn rác’ kia nữa chứ!” Đại Bảo bổ sung.
Đại Bảo nói câu đó khiến chúng tôi giật mình bừng tỉnh khỏi suy tư, tôi nói: “Mau sắp xếp rõ ràng công việc ở đây, nhanh chóng đến Phong Lĩnh xem vụ án bên đó thế nào, rồi chúng ta phải trở về tìm anh Ngô gấp thảo luận về việc giám định nét chữ.”
Trong phòng họp của tổ chuyên án, đầu tiên trưởng phòng Hoàng đọc lệnh của Sở Cảnh sát, nội dung là căn cứ vào các yếu tố như thủ đoạn gây án, đối tượng bị sát hại… Sở Cảnh sát quyết định gộp hai vụ án này thành một để điều tra. Chỉ huy trưởng của chuyên án do đội trưởng Đội Cảnh sát hình sự của Sở Cảnh sát làm đội trưởng, chỉ huy phó là hai trưởng phòng Cảnh sát hình sự của hai thành phố nơi xảy ra án mạng. Những vụ án này được đặt tên là “Chuyên án Kẻ dọn rác”.
Tôi phân tích nhanh: “Vụ án này và vụ án ở Long Phiên có thể gộp thành một, găng tay cao su, bọc giày được hung thủ sử dụng làm vật yểm trợ, hung thủ dùng dao phẫu thuật để sát hại nạn nhân. Trên người hai nạn nhân đều không có vết thương do giằng co kháng cự, nạn nhân bị sát hại dã man trong tình trạng không hề phòng bị. Điều đó chứng tỏ hung thủ dễ dàng khiến nạn nhân lơi lỏng cảnh giác, nhưng bản lĩnh của hung thủ là dùng đòn tấn công tâm lý để lừa gạt chứ không hề dùng thuốc mê hay bạo lực. Vì cả hai nạn nhân đều không có hiện tượng trúng độc, phần đầu cũng không bị tấn công. Còn một vấn đề nữa tôi vẫn chưa nghĩ thông suốt, nếu tìm vị trí chính xác trong điều kiện tối lửa tắt đèn như thế thì buộc phải dùng tay sờ, sờ thấy vị trí giữa xương sườn thứ ba và thứ tư mới hạ dao, bởi vậy nếu nạn nhân bị sát hại khi đang ngủ say sẽ không giải thích hợp lý được điều này. Đặc biệt là cúc ngực của ông Lý “hói” mở phanh ra, rất có khả năng hung thủ làm vậy để tiện bề hạ dao. Nhưng nếu khi ấy nạn nhân còn thức thì vì sao họ lại không hề đề phòng hung thủ như vậy?”
“Một người tiếp cận mình trong khi kẻ ấy đeo găng tay, đi bọc giày mà sao nạn nhân lại không hề đề phòng nhỉ?” Trưởng phòng Hoàng thắc mắc.
Tôi nói: “Chúng ta không biết rốt cuộc hắn dùng thủ đoạn gì, mà chỉ có thể suy đoán. Khi đó điều kiện ánh sáng không được lý tưởng cho lắm, người bị hại không nhìn rõ người trước mặt. Mục đích thách thức giới cảnh sát của hung thủ rất rõ rệt, có thể hắn muốn khoe khoang chiến tích, cũng có thể hắn là kẻ bệnh hoạn. Nhưng hắn sử dụng dao phẫu thuật, một vật mang tính biểu trưng như vậy làm hung khí gϊếŧ người, điều đó chứng tỏ rất có khả năng hung thủ là bác sĩ hoặc cảnh sát.”
“Kết hợp hai yếu tố đó lại thì kẻ đó là bác sĩ pháp y còn gì?” Trần Thi Vũ nói.
Tôi không tiếp lời, chỉ bảo: “Vì vụ án xảy ra ở hai thành phố khác nhau, nên bước tiếp theo cần phải điều tra loại trừ các ghi chép về đăng ký thường trú, tạm trú ở thành phố Vân Thái trong mấy ngày nay, xem có ai là bác sĩ hoặc cảnh sát đăng ký lưu trú không?”
“Lượng công việc này quá lớn.” Trưởng phòng Hoàng nói, “Nội trong vòng mấy ngày nay đã có mấy chục ngàn người đăng ký lưu trú, nếu kiểm tra nghề nghiệp của từng người trong hệ thống đăng nhập hộ tịch thì có vẻ không được thực tế cho lắm. Mà trong thông tin hộ tịch hiện tại, những người đăng ký lưu trú cũng chưa chắc đã khai thật nghề nghiệp thực sự của họ.”
“Thì cũng phải cố đấm ăn xôi thôi chứ biết làm thế nào?” Tôi thở dài, “Hung thủ không để lại bất kỳ manh mối mang tính đột phá nào cho chúng ta, nạn nhân lại đều là những người lang thang hầu như chẳng liên quan gì đến hung thủ. Thông thường, họ không có mâu thuẫn gì to tát với bất kỳ ai, mà chắc chắn hung thủ gϊếŧ họ cũng không phải vì cướp của. Bởi vậy tôi cũng không biết bắt đầu điều tra bước tiếp theo từ đâu.”
“Xin lỗi, tôi cắt ngang một chút!” Đại Bảo chậm rãi nói, “Khi nãy anh nói khả năng hung thủ là bác sĩ, nhưng có khi nên đặt nghi vấn hung thủ là y tá hoặc hộ lý thì đúng hơn. Vì tôi cảm thấy hung thủ có thể là nữ giới.”
“Phụ nữ sao?” Tôi hơi ngạc nhiên, “Xuống dao tàn nhẫn chuẩn xác, hơn nữa lực cánh tay lại rất lớn. Lúc khám nghiệm tử thi, tôi tách phần cơ bao quanh xương sườn và màng xương thì thấy vết ép của cán dao phẫu thuật lên xương sườn thứ ba, điều đó chứng tỏ hung thủ sử dụng lực rất lớn, nếu không sẽ không thể hình thành dấu vết đó.”
“Nhưng tôi lại ngửi thấy mùi thơm của nước hoa ở hiện trường.” Đại Bảo nói.
“Nước hoa ư? Mọi người có ngửi thấy không?” Tôi quay sang Trương Yên và những cậu cảnh sát điều tra đầu tiên có mặt ở hiện trường.
Mọi người đều lắc đầu.
Tôi chỉ tay về phía Trương Yên và Trần Thi Vũ bảo: “Hay mùi nước hoa tỏa ra từ người hai cô này?”
Hai cô gái đồng thanh: “Tôi không dùng nước hoa.”
Tôi cười: “Vấn đề này không ảnh hưởng đến bước điều tra tiếp theo. Bước tiếp theo ngoại trừ điều tra loại trừ trên máy camera và tiếp tục tìm kiếm những đối tượng khả nghi ra, thì chúng ta phải nỗ lực tìm những người thuê phòng trọ tại thành phố Vân Thái. Tôi biết làm vậy chẳng khác nào mò kim đáy biển, nhưng trong tình trạng chẳng nắm được manh mối nào trong tay, thì cho dù biển rộng hơn nữa, ta vẫn phải mò kim thôi.”
Trên đường ngồi xe trở về thành phố Phong Lĩnh, màn đêm buông xuống ngoài ô cửa kính, bốn chúng tôi gật gù buồn ngủ.
Đột nhiên Trần Thi Vũ chợt bừng tỉnh khỏi giấc mơ, chọc ngón tay vào người tôi, hỏi: “Đúng rồi! Chẳng phải hôm nay anh đặc biệt có hứng thú với chiếc mũ bảo hộ lao động sao? Khi nãy ngồi trong phòng của tổ chuyên án, sao anh không nhắc gì đến chuyện chiếc mũ đó vậy?”
Tôi nói: “Chiếc mũ đó chẳng liên quan gì đến chuyên án ‘Kẻ dọn rác’ thì tôi nhắc đến làm gì?”
“Hứ!” Trần Thi Vũ bĩu môi nói, “Thấy anh tỏ vẻ như bắt được vàng làm tôi cứ ngỡ anh phát hiện ra chuyện gì quan trọng lắm cơ!”
Tôi nhắm mắt cười không đáp lời.
Một đêm yên lặng. Sáng hôm sau, chúng tôi vội đến phòng họp của tổ chuyên án, hẹn đúng tám giờ rưỡi gặp mặt các thành viên của tổ chuyên án. Mới mười mấy tiếng mà cảnh sát đã tìm ra lai lịch của người chết rồi.
“Nạn nhân là một người nhặt phế liệu sống cách đây hơn một cây số.” Điều tra viên nói, “Các đặc điểm nhận dạng của ông ta hoàn toàn trùng khớp với những gì các anh mô tả. Chúng tôi đang tiến hành xét nghiệm ADN để xác thực. Chúng tôi cũng đã đến nhà ông ta, quả nhiên mấy ngày nay ông ta chưa về nhà, bởi vậy về cơ bản có thể suy đoán nạn nhân tử vong mấy hôm trước chính là ông ta. Sau khi lục soát và điều tra, chúng tôi thấy trong nhà nạn nhân chỉ có vài đồ đạc cũ nát, không có vật gì đáng ngờ, mọi thứ đều rất bình thường. Bởi vậy chắc chắn hung thủ không gϊếŧ nạn nhân tại nhà của nạn nhân hoặc khu vực quanh đó.”
“Quả nhiên là người nhặt phế liệu.” Tôi lẩm bẩm, rồi ngẩng đầu hỏi, “Khi còn sống, ông ta có xảy ra mâu thuẫn với ai không? Chẳng lẽ đây là vụ gϊếŧ người do cơn tức giận bộc phát thật sao?”
“Ông ta không hề nảy sinh mâu thuẫn với bất kỳ ai.” Viên cảnh sát điều tra đáp, “Các mối quan hệ xã hội của nạn nhân vô cùng đơn giản, ngoại trừ giao tiếp với những người ở trạm thu mua phế liệu ra thì ông ta không qua lại với bất kỳ ai, ngay cả những người nhặt phế liệu sống cạnh cũng không biết ông ta. Ông chủ trạm thu mua phế liệu nói gần đây không thấy ông ta đến bán phế liệu. Chúng tôi hỏi cặn kẽ hơn, ông chủ kia mới cung cấp các thông tin về lai lịch của nạn nhân. Đồng thời chúng tôi cũng điều tra những người ở trạm thu mua phế liệu, nhưng không phát hiện thấy điểm nào đáng ngờ.”
“Nhà máy này có bao nhiêu công nhân?” Tôi hỏi.
“Hơn ba ngàn công nhân.” Viên cảnh sát trả lời.
“Thế có bao nhiêu người đội mũ bảo hộ lao động đi làm?” Tôi hỏi.
Trần Thi Vũ lập tức quay sang nhìn tôi với ánh mắt như thể vừa bừng tỉnh ngộ. Trong khi đó viên cảnh sát điều tra vẫn ngơ ngác chưa hiểu vì sao tôi đột nhiên hỏi vậy, cậu ta mở sổ ghi chép ra, ấp úng nói: “Việc này… việc này… tôi vẫn chưa hỏi.”
“Sao cậu lại hỏi vậy?” Trưởng phòng Chu lúc nào nói chuyện cũng nho nhã, nhẹ nhàng khác hẳn với cách nói chuyện bỗ bã, thô lỗ của đa số thành viên trong tổ chuyên án.
Tôi cười đáp: “Khi khám nghiệm tử thi, chúng tôi phát hiện hung khí là vật tày có bề mặt trơn nhẵn, có chỗ thẳng có chỗ lại vồng lên, làm bằng chất liệu nhẹ, tiện mang theo bên người. Tôi ngẫm nghĩ rất lâu mà không nghĩ ra vật đó rốt cuộc là vật gì, mãi cho đến khi đến hiện trường của vụ gϊếŧ người ở thành phố Vân Thái và nhìn thấy vật đó.”
Tôi đưa những bức ảnh chụp chiếc mũ bảo hộ lao động ở thành phố Vân Thái lên máy chiếu và nói: “Mũ bảo hộ lao động vừa vặn phù hợp với mọi đặc điểm của hung khí.”
Viên cảnh sát điều tra chen ngang: “Ô, tôi nhớ ra rồi! Ở công xưởng này không bộ phận nào bắt buộc phải đội mũ bảo hộ lao động cả.”
“Những bộ phận ở xung quanh công trường xây dựng thì sao?” Đáp án này khiến tôi bất ngờ, mọi suy đoán của tôi bỗng chốc trở nên vô nghĩa. Viên cảnh sát điều tra lắc đầu.
Đại Bảo nói: “Không nhất thiết phải là mũ bảo hộ lao động. Cũng có thể đó là mũ bảo hiểm xe máy.”
“Đúng thế!” Câu nói của Đại Bảo đã cứu vãn suy đoán của tôi, tôi nói, “Lúc trước tôi quên mất, những vết thương trên mặt nạn nhân được tạo thành bởi một vật có cạnh sắc. Nếu vậy thì đúng là mũ bảo hiểm xe máy còn phù hợp với đặc điểm của hung khí hơn cả mũ bảo hộ lao động. Bởi vì rất có thể trên mũ bảo hiểm xe máy có lớp kính chắn, khi đẩy lớp kính chắn lên thì sẽ tạo thành một đường cạnh sắc trên mặt phẳng trơn nhẵn của mũ bảo hiểm.”
“Ý anh ám chỉ hung thủ là người đi xe gắn máy sao?” Trưởng phòng Chu xác nhận lại.
Tôi kiên định gật đầu.
Viên cảnh sát điều tra nói: “Nhưng ở đây đầy rẫy người đi xe máy, trong công xưởng cũng có rất nhiều công nhân viên chức đi xe máy, ngay cả những người nhặt phế liệu quanh đây cũng thường dùng xe máy làm phương tiện đi lại.”
“Đó chính là điều tôi muốn nói.” Tôi gật đầu, “Vụ án này có năm điểm khác biệt với những vụ án mạng thường gặp khác, chính điều đó khiến nó trở nên ly kỳ và đặc biệt. Thứ nhất là địa điểm gây án. Với các vụ án mạng thông thường, địa điểm gây án có thể lộ liễu nhưng địa điểm vứt xác phải là nơi kín đáo, còn ở vụ án này, địa điểm gϊếŧ người thì chúng ta chưa biết, nhưng địa điểm vứt xác lại vô cùng lộ liễu, đây không phải hiện tượng bình thường. Trước đây chúng ta từng nghi ngờ nhân viên bảo vệ của nhà máy, nhưng nhân viên bảo vệ hoàn toàn không cần thiết phải khom người tránh tầm quan sát của camera mà vứt xác, vì làm như thế quá mạo hiểm. Thứ hai là hung khí gây án. Ở các vụ án mạng thông thường, hung thủ thường sử dụng các loại hung khí dễ gây chấn thương cho người khác, trong khi ở vụ án này, hung thủ lại sử dụng hung khí rất khó làm nạn nhân tử vong. Nếu địa điểm gây án ở trong phòng thì có thể sử dụng các công cụ như dao, búa, còn nếu địa điểm gây án ở ngoài trời thì anh thấy đấy, xung quanh công trường là đồng không mông quạnh, tìm đâu chẳng thấy gạch đá, vì sao hung thủ không nhặt bừa một viên mà đánh, lại cứ nhất thiết phải dùng một công cụ không thuận tay và đánh vô số phát vào mặt nạn nhân? Vì sao hung thủ lại phí sức như thế để sát hại một người?”
Tôi ngừng giây lát, nhấp ngụm nước, sắp xếp lại luồng tư duy, rồi nói tiếp: “Thứ ba là thủ đoạn. Ở các vụ gϊếŧ người thông thường, hung thủ thường áp dụng phương thức tốc chiến tốc thắng, nhưng hung thủ của vụ án này lại không tiếc thời gian và sức lực để gϊếŧ một người. Đây là ví dụ điển hình về gây án quá độ. Gây án quá độ là rõ ràng chỉ cần tốn một phần sức lực để gϊếŧ người, nhưng hung thủ lại bỏ ra mười phần sức lực. Thứ tư là đối tượng sát hại. Chúng ta đều biết người nhặt phế liệu là nhóm người thuộc tầng đáy xã hội, họ rất yếu thế, họ gần như không có mâu thuẫn hoặc khúc mắc gì với người khác, sát hại một người đi nhặt phế liệu, bản thân việc này đã rất không bình thường. Trong chuyên án ‘Kẻ dọn rác’ mà chúng ta đang xử lý, tôi cho rằng hung thủ là một người thần kinh không bình thường hoặc có thể là người có nhân cách chưa kiện toàn. Thứ năm là vị trí sát thương. Chúng ta đều biết rằng nếu muốn dùng vũ lực để khiến một người tử vong thì phải tấn công vào những vị trí yếu huyệt của người đó. Nhưng trong vụ án này nạn nhân lại bị tấn công vào mặt, hễ ai có chút kiến thức về y học thì đều biết tấn công vào mặt rất khó gây ra tử vong. Đó cũng là một điểm kỳ lạ.”
“Anh nói nhiều vậy rốt cuộc muốn biểu đạt điều gì?” Trưởng phòng Triệu hỏi.
Tôi liếc nhìn Lâm Đào, nói: “Cậu đoán xem nào!”
Lâm Đào gật đầu nói: “Chứng cứ rất đầy đủ. Sáng hôm qua chúng tôi vừa thảo luận về một vài đặc điểm của những bệnh nhân tâm thần gϊếŧ người. Tôi cảm thấy những đặc điểm đó rất phù hợp với vụ án này. Tất cả các yếu tố như thủ đoạn gây án, hung khí gây án, địa điểm vứt xác, đối tượng sát hại, vị trí sát thương đều không phù hợp với logic tư duy của người bình thường. Nếu đã không thể giải thích bằng tư duy của người bình thường thì chúng ta đành phải giải thích bằng tư duy của bệnh nhân tâm thần.”
“Bệnh nhân tâm thần sao?” Trưởng phòng Triệu lẩm bẩm.
Tôi nói: “Đã là bệnh nhân tâm thần thì đương nhiên không thể là công nhân nhà máy. Hơn nữa đối tượng bị sát hại là người nhặt phế liệu, tôi luôn cảm thấy rất có khả năng động cơ gây án phải liên quan đến phế liệu. Khi nãy, các cậu nói một số người phế liệu thường đi xe gắn máy, bởi vậy tôi cảm thấy các cậu nên đặt trọng điểm vào những người nhặt phế liệu mà đi xe gắn máy, hơn nữa người đó có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần.”
“Nhưng người mắc bệnh tâm thần cũng có thể lái xe gắn máy sao? Không những biết lái xe mà còn biết đội mũ bảo hiểm khi lái xe nữa chứ?” Viên cảnh sát điều tra không lý giải được.
Tôi nói: “Đầu tiên, người mắc bệnh tâm thần mà tôi nói có thể không giống với những bệnh nhân hoàn toàn mất khả năng tư duy như các anh đang tưởng tượng, có khả năng người đó mắc chứng tâm thần phân liệt gián đoạn, cũng có khả năng đó là người mắc bệnh rối loạn lưỡng cực hưng – trầm cảm, loại bệnh mà lúc bình thường biểu hiện của bệnh không rõ ràng lắm, chỉ khi bị kí©h thí©ɧ thì bệnh mới phát tác mà thôi. Hơn nữa tâm thần và lái xe máy, đội mũ bảo hiểm là hai việc không hề xung đột với nhau, ví dụ như vụ án mà chúng tôi đang xử lý ở Vân Thái, tâm thần của nạn nhân không được bình thường cho lắm, nhưng hàng ngày ông ta vẫn thường xuyên đội mũ bảo hộ lao động trên đầu.”
“Điều đó có nghĩa là không thể lấy đối tượng bệnh nhân tâm thần làm căn cứ điều tra loại trừ sao?” Viên cảnh sát điều tra hỏi.
Tôi gật đầu: “Đúng vậy! Nhưng có thể coi đó là điều kiện tham khảo, nói không chừng có người cảm thấy ai đó không bình thường thì đó chính là manh mối. Tôi cho rằng những người đi nhặt phế liệu mà lại đi xe gắn máy chắc không nhiều đâu, phải không?”
Đại Bảo nói: “Cho phép tôi cắt ngang một chút, có lẽ hung thủ là người cao to, bởi vì anh ta chỉ cần một tay là có thể bóp cổ khống chế nạn nhân, đồng thời đánh nạn nhân mấy chục phát vào mặt, điều đó chứng tỏ hung thủ có thể lực rất tốt.”
“Đúng vậy!” Tôi cảm kích nhìn Đại Bảo. Suy đoán bổ sung của cậu ta có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc trưng về thể hình là căn cứ để loại trừ đối tượng tình nghi đơn giản nhất và trực tiếp nhất.
Để gia tăng hiệu quả làm việc, tổ khám nghiệm chúng tôi cũng tham gia vào tổ điều tra, chúng tôi tiến hành điều tra từng người nhặt phế liệu ở xung quanh khu vực công xưởng. Chúng tôi làm việc từ sáng đến lúc chạng vạng thì phát hiện một người nhặt phế liệu khá đặc biệt.
Người đó có biệt hiệu là Mạnh “đại ca”, nghe nói hắn có sức khỏe phi thường. Một tải phế liệu cần hai người khênh thì hắn chỉ cần một tay là đủ nhấc bổng lên. Thường ngày Mạnh “đại ca” rất thích giúp đỡ người khác, nhưng tính tình nóng nảy và bốc đồng. Tuy không ai dám khẳng định hắn mắc chứng trầm cảm nhưng bấy nhiêu thông tin cũng đủ để chúng tôi xếp hắn vào danh sách kẻ tình nghi mức độ cao.
Buổi tối, Mạnh “đại ca” thường đến trạm thu mua phế liệu để bán thành quả một ngày của mình. Nhân lúc hắn vào trạm thu mua, chúng tôi lặng lẽ lấy mũ bảo hiểm treo lủng lẳng trên gương chiếu hậu.
Trong một góc phía ngoài trạm thu phí, chúng tôi dùng đèn chiếu giám định chiếu vào từng góc chết của chiếc mũ, quả nhiên ở đường viền của mũ có những vết lấm chấm màu đỏ. Đại Bảo vội vã lấy dung dịch Tetramethylbenzidine để tiến hành kiểm nghiệm có phải vết máu không. Kết quả dương tính dần dần hiện ra. Chợt chúng tôi nghe thấy một tiếng hét phẫn nộ.
“Ai ăn trộm mũ của tôi rồi?”
Thì ra Mạnh “đại ca” ra khỏi trạm thu mua phát hiện thấy chiếc mũ của mình biến mất nên đã tri hô.
Hai cảnh sát điều tra đi từ chỗ góc chúng tôi đang đứng đến chỗ hắn, giơ thẻ cảnh sát. Chẳng ngờ Mạnh “đại ca” đột nhiên phát điên, nhảy bổ vào hai viên cảnh sát. Ba người vật nhau túi bụi, nhưng hai viên cảnh sát không có cách nào vật ngã Mạnh “đại ca” xuống đất. Biến cố xảy ra bất ngờ khiến các nhân viên trong trạm thu mua không biết phải làm sao cho phải.
Trần Thi Vũ bất thình lình chui ra khỏi chỗ chúng tôi, lao đến chỗ Mạnh “đại ca” nhanh như một tia chớp, cô tung một cú đá, Mạnh “đại ca” liền ôm lấy hạ thể ngã vật ra đất. Cuối cùng hai viên cảnh sát cũng có thể còng tay hắn lại.
Trần Thi Vũ tung chiêu này vừa nhanh, vừa chuẩn lại rất độc khiến tôi, Đại Bảo và Lâm Đào vẫn đang nấp trong góc tường cũng phải tròn mắt ngạc nhiên.
“Cái cô Lông Vũ này mai sau ai mà dám lấy làm vợ chẳng biết?” Đại Bảo ngoác miệng nói.
“Sao không dám lấy? Trông oách hết sảy!” Lâm Đào tấm tắc khen.
Tôi cười trêu: “Tôi biết rồi nhé, thì ra Lâm Đào thích tuýp phụ nữ mạnh mẽ giống như Thi Vũ. Thế nào? Cuối cùng cậu đã tìm ra mục tiêu thay thế Tô My trong trái tim rồi à?”
Mặt Lâm Đào ửng đỏ.
Mạnh “đại ca” bị dẫn về phòng thẩm vấn, hắn đã qua giai đoạn phấn khích quá độ, giờ hắn ngồi ủ rũ, đầu ngoẹo sang một bên ở trong phòng thẩm vấn. Đối diện với chứng cứ rành rành, Mạnh “đại ca” tự biết dẫu có ngoan cố phủ nhận cũng chẳng ích gì, thế là chẳng mất bao nhiêu thời gian cảnh sát đã khiến hắn khai hết tội lỗi của mình.
May mà Mạnh “đại ca” chưa phải dạng thần kinh phân liệt nên vẫn nhớ hết quá trình hắn gϊếŧ người.
Mạnh “đại ca” không quen biết nạn nhân, nguyên nhân gϊếŧ người chẳng qua vì một ít phế liệu. Mạnh “đại ca” là người có sức khỏe phi phàm, rất nhiều công xưởng muốn tuyển dụng hắn, nhưng hắn đều từ chối, nói theo cách của hắn thì hắn có cảm tình đặc biệt với công việc nhặt phế liệu. Hắn cho rằng nhặt phế liệu là một công việc nghiêm túc, hơn thế nữa đó chính là sự nghiệp của hắn. Bởi vậy Mạnh “đại ca” làm việc rất chăm chỉ. Thường ngày hắn đều bắt đầu công việc từ sáng sớm và đến tận tối mịt mới về nhà, hắn mang phế liệu về nhà, chọn ra những loại phế liệu mà mình thích, chất đống ở căn phòng nhỏ ngay cửa nhà hắn. Thế mà mấy hôm trước, khi hắn đi nhặt phế liệu trở về chợt thấy ai đó lục lọi trong căn phòng nhỏ ngay trước cửa nhà hắn. Không cần nghĩ cũng biết kẻ này lại muốn “tiện tay dắt bò” rồi đây!
Trong khoảnh khắc đó, bệnh của hắn liền tái phát, hắn vớ chiếc mũ bảo hiểm nhằm thẳng đối phương mà tấn công tới tấp. Đối phương sợ hãi ngã ngồi xuống đất. Mạnh “đại ca” thuận đà lao đến bóp cổ kẻ đó, rồi dùng mũ bảo hiểm đánh lấy đánh để vào mặt ông ta. Một lát sau mũi ông ta chảy máu lênh láng, rồi lăn ra ngất xỉu. Đương nhiên lúc đó đang tức điên người nên Mạnh “đại ca” không thể kiểm soát được lý trí của mình nữa, hắn tiếp tục đánh đối phương cho đến khi ông ta hoàn toàn tắt thở.
Mặc dù đối phương đã chết nhưng cơn phát bệnh của Mạnh “đại ca” vẫn chưa thuyên giảm, hắn biết thi thể ngâm lâu ngày trong nước sẽ biến dạng trương phình nên vội vác thi thể đi bộ hai cây số đến một dòng sông nhỏ bên vệ đường, rồi ném mạnh thi thể xuống nước.
Tôi ngồi trong phòng thẩm vấn nghe hung thủ khai chân tướng sự thật. Nghe xong, tôi nhanh chóng gấp cuốn sổ ghi chép lại, nói với tổ khám nghiệm: “Đi thôi! Chúng ta trở về thành phố tìm anh Ngô. Tôi không tin tên ‘Kẻ dọn rác’ này có thể trốn được mãi.”
- 🏠 Home
- Linh Dị
- Trinh Thám
- Pháp Y Tần Minh - Quyển 4: Kẻ Dọn Rác
- Chương 13: Vụ án thứ 3 - Người khổng lồ màu xanh (4)