Nhà tranh Bãi Sậy. Buổi sáng hết sức om sòm. Phàm trần do đi xa quá mệt mỏi nên ngủ đến đầu giờ tỵ tức 9 h sáng mới thức.
Ngồi dậy, ra nhà sau đánh răng, rửa mặt, tắm gội tỉnh táo. Vạn Ác Tà Vương mới thay xiêm y. Đơn giản là một mảnh vải trắng to. Được vạn Ác Tà Vương quấn thành y, theo kiểu truyền thống Ấn Độ. Phong cách cổ trang Vạn Ác Tà Vương hết sức độc lạ. Không đυ.ng hàng với ai. Vạn Ác Tà Vương mới bước ra trước sân. Thì thấy Gấu Vũ Ca, Trương Minh Đại, Trần Phúc Loan, Vô Cực Quỷ Đồng ngồi một tụ, say sưa chè rượu.
Một góc sân thì Quỷ Cùng Đinh, Thiên Linh Thánh Nữ, Kè Ông, Dị Quỷ đang chụm đầu lắc bầu cua hết sức om sòm.
Nhìn thêm một góc sân thì ngũ đại yêu tiên là Hồ Ly Diêu Ly, Chồn Bà Ly, Nhím Cộ Nô, Rắn Ba Thúc, Chuột Mộ Dã đang ngồi binh bài sập xám. Hết sức hại não.
Một bên góc sân lại là Cô Hai, Cô Ba, Thằng Tèo, Ông Địa đang ngồi quánh bài cào. Thật hết sức dã man. Vạn Ác Tà Vương phàm trần còn tưởng mình đang ở sòng bài Ma Cao Thượng Hải. Hết sức đau đầu.
Phàm trần bước ra khỏi sân nhà, ra ngoài bãi sậy thì thấy Tuyết Nữ, Khô Liên Y Giáo Chủ, Hà Ma Trưởng Lão đang ngồi dưới đồng đốt rơm, nướng tôm, nướng cá lóc đãi chúng ma ăn uống. Khung cảnh hết sức đồng quê vui vẻ.
Vạn Ác Tà Vương trong y phục trắng quấn xéo người lộ vai phải. Như các đạo giả Bà La Môn xưa cổ. Vạn Ác Tà Vương bước dạo quanh bãi sậy. Từ ngày Vạn Ác Tà Vương cầm quyền, vùng đất bãi sậy hết sức an bình.
Không biết từ khi nào, mà trong phạm vi Bãi Sậy, hình thành một khu chợ quỷ, hết sức quy mô. Các quỷ vật bày biện đầy đủ hàng quán từ đồ ăn thức uống, đến bí pháp, bí tịch,bí điển, linh dược, đan dược được bày bán công khai.
Nhân sĩ Võ Lâm bên ngoài cũng ra vào tự do. Không ai dám sinh sự hay làm khó nhau. Đơn giản vì biết đến oai danh của Vạn Ác Tà Vương. Sơ xuất là bị ngũ đại yêu tiên diệt liền.
Nên khu chợ quỷ rất văn minh lịch sự. Vui lòng khách đến. Vừa lòng khách đi. Chợ quỷ Bãi Sậy muôn màu muôn vẻ. Phàm trần hết sức hứng thú, bước nhanh chân vào chợ quỷ. Phàm trần đến trước hàng bún. Kêu một tô bún cá. Chủ của quầy hàng này là một con ma bến nước, mới đến đây lập nghiệp.
Ăn no nê một tô bún. Phàm trần mới lấy bạc bên trong túi càn khôn ra trả. Rồi dạo xung quanh.Đi mãi đi mãi thì vô tình gặp Trần Phúc Loan. Phàm trần vỗ vai kêu. Ngươi làm gì ở đây. Lúc nảy ta còn thấy ngươi ăn nhậu ở trong sân. Sau mới đó lại ra đây rồi. Trần Phúc Loan đáp. Bẩm Sư Phụ. Đệ tử tửu lượng kém. Nên bỏ chạy là thượng sách. Sẵn ngoài đây có chợ quỷ. Nên đi dạo mua ít đồ linh tinh. Phàm trần cười rồi khoát vai bảo thầy trò ta cùng dạo chợ quỷ. Xem có vì vui. Vạn Ác Tà Vương phàm trần cùng Luận Đạo Công Trần Phúc Loan cứ đi mãi mà không hết khu chợ quỷ.
Bỗng đi ngang một quầy, trên bản hiệu ghi 8 chữ " Đâm Thẳng Sự Thật. Chết Ngắt Chúng Sanh". Vạn Ác Tà Vương phàm trần hết sức hứng thú. Mới bước vào ngồi xuống. Đối diện bàn là một phụ nữ. Phàm trần mới thưa hỏi. Quầy nầy mở ra, để làm gì. Thiếu phụ nói. Xem bói đoán mệnh, tiếp kẻ hữu duyên không vì cơm gạo.
Phàm trần cảm thấy hứng thú mới hỏi thăm danh tính phụ nữ này. Người phụ nữ mới nói. Cứ gọi ta là Bà Đồng Linh. Ta tục danh Ngô Phương Linh. Xuất thân từ Quận Thanh Xuân, Thành Cổ Loa. Có cơ duyên dạo chơi đến đây nên mở quầy đoán vận.
Phàm trần mới chấp tay thưa nói. Còn tiểu nhân tên gọi phàm trần. May mắn gặp cô nương đây. Kính xin cô nương xem cho một quẻ mà biết đường đâu là an. Đâu là ổn.
Bà Đồng Linh trong y phục đen huyền, đầu đội khăn mỏ quạ, móng tay đỏ chót, môi tô son đỏ mộng. Gái mới 30 mà nhìn ác đạn. Bà Đồng Linh rót một bát rượu uống cạn, rồi lấy trầu nhai nhóp nhép. Bà Đồng Linh lúc này khuôn mặt ửng hồng, ngà ngà say. Mới nhìn Vạn Ác Tà Vương phàm trần rồi nói.
Túc hạ thiệt không có quần què gì để coi. Bà Đồng Linh ta nhìn túc hạ liền phán. Túc hạ trên răng, dưới dép. Mệnh hồn túc hạ không có linh căn bổn mạng. Túc hạ sinh ra là một sự sai lầm lớn của trời đất. Nếu Bà Đồng Linh ta mà là trời. Bà Đồng Linh ta sẽ bóp mũi cho túc hạ chết ngay khi còn trong trứng. Chứ để túc hạ ra đời. Mà bổn mệnh thua cả một người thường. Thì làm sao sinh tồn với thế gian này.
Phàm trần nghe Bà Đồng Linh nói mà cười ngất. Cảm thấy rất thích thú, đúng với ý mình. Luận Đạo Công Trần Phúc Loan đứng kế bên nghe mà lùn bùn lỗ tai, hoài nghi nhân sinh. Trời ơi Sư Phụ mình chả lẽ còn thua cả người phàm. Không đúng. Không đúng. Luận Đạo Công nhớ lại từng chi tiết trãi qua. Có ma mới tin Vạn Ác Tà Vương thua người phàm. Luận Đạo Công cố gắng im lặng nghe bà đồng nói.
Bà Đồng Linh mới rót chén rượu thứ hai uống từng ngụm. Rồi châm một điếu diệp dược linh đốt phì phèo nhả khói. Bà Đồng Linh lúc này trong rất đẹp. Trong con mắt cảm nhận của Vạn Ác Tà Vương. Bà Đồng Linh rất đẹp mặt đẹp người. Bà Đồng Linh nhìn phàm trần rồi nói.
Thiệt cả cuộc đời Bà Đồng Linh ta gặp rất nhiều kỳ nhân dị sĩ. Hễ là nhân loài, dù là bình dân bá tánh, hay tu hành giả, cường giả. Trên thân đều tỏa ra quang mang hiển lộ. Mệnh hồn phải ít nhiều gì có ánh sáng. Mà hễ là con người thì phải có tổ tiên ông bà theo phù hộ.
Còn Bà Đồng Linh ta nhìn túc hạ. Bà Đồng Linh ta nói thiệt. Thật túc hạ lạ lắm. Ngay cả tổ tiên ông bà cũng không theo. Thiệt là cổ quái. Trên thân túc hạ không có âm tà, cũng không có dương khí. Túc hạ lại không có hào quang ánh sáng trong thân. Túc hạ kiểu ở đâu rớt xuống đây. Túc hạ không thuộc về vũ trụ này.
Vạn Ác Tà Vương phàm trần nghe mà đã lỗ tai. Thiệt khi Vạn Ác Tà Vương lấy được pháp thân từ bí cảnh Cồn L*и. Sau khi quay trở về nhà tranh Bãi Sậy. Vạn Ác Tà Vương đã vận chuyển Luận Xá Công trung chuyển tất cả ma tà khí tức thành chánh khí thu nhϊếp vào kinh kỳ bát mạch. Phàm trần lại dùng Luận Xá Công phong bế tất cả kỳ kinh bát mạch. Để hắn trở nên hết sức tầm thường. Và tầm thường hơn cả dân thường. Điều này chỉ mỗi mình Phàm Trần làm được. Chứ thế gian không ai làm được.
Bà Đồng Linh lúc này rót tiếp một chén rượu. Vừa uống vừa nhìn phàm trần rồi nói tiếp. Tuy nhìn túc hạ cùi bắp vậy, bèo vậy, nhưng hễ túc hạ đi đến đâu, lại có Thần Long phù hộ độ trì dữ dội. Bà Đồng Linh ta thấy được Thần Long ẩn sâu trong mạt na thức cảnh bên trong con người túc hạ. Túc hạ quả là lạ lắm.
Bà Đồng Linh ta lại thấy. Túc hạ có một đại năng hết sức khủng khϊếp bảo vệ. Người này không thân thích với túc hạ. Vị Cường Giả này không nằm trong tộc họ của túc hạ. Nhưng Vị Cường Giả Đại Năng này rất mạnh. Vị Cường Giả này lại là nữ tử. Hễ khi túc hạ gặp sự cố. Vị Cường Giả này sẽ âm thầm trợ giúp.
Phàm trần định mang tiền ra trả thì Bà Đồng Linh từ chối. Chỉ bảo là hữu duyên xem cho vui.
Luận Đạo Công Trần Phúc Loan mới bước vào ngồi xuống nhờ Bà Đồng Linh xem một quẻ. Lúc này Bà Đồng Linh ngà ngà say. Mới nắm lấy tay Luận Đạo Công Trần Phúc Loan rồi nói.
" Thiệt rằng ông vốn phúc sinh.
Thiên Tôn vô lượng chí tình độ ông.
Xưa Ông đắc đạo tiên rồng.
Vén mây mà xuống trần hồng dạo chơi.
Ngờ đâu sấm chớp lả lơi.
Về trời không kịp ông rơi lại trần.
Ngày nay phong vũ mưa vần.
Lúc thì ông tỉnh lúc thì ông mê.
Nghiệp ông vốn rất nặng nề.
Âm tà bu bám khổ bề gian lao.
May thay trước mái thiên trào.
Ông có hộ pháp theo sau hộ tùng.
Độ ông mấy bận lao lung.
Độ ông mấy thuở thoát khùng ông ơi.
Xem ông vốn thiệt tiên trời.
Tôi thì quý mến mở lời muốn ông.
Chi bằng kết nghĩa vợ chồng.
Phu thê hòa hiệp mặn nồng ái ân.
Duyên trời se sắc trong trần.
Gặp nhau là chữ tương lân dựa kề.
Chàng chàng thϊếp thϊếp phu thê.
Hào quang sáng tỏa chàng về thϊếp thương.
Bà Đồng Linh nắm chặt tay Luận Đạo Công cười nồng thắm. Luận Đạo Công nghe xong hết hồn, chảy mồ hôi độp độp, mới gỡ tay ra. Ba chân bốn cẳng co giò chạy mất dép. Bà Đồng Linh ngồi cười không chịu nổi.
Lúc này từ phía sau bước vào bàn ngồi, không ai khác là con Gấu Vũ Ca. Vũ Ca cũng say mèm. Mới lên tiếng nói. Xin cô nương hãy xem cho Hắc Hùng Đại Vương ta một quẻ.
Bà Đồng Linh mới liếc mắt nhìn rồi nói.
" Thiệt ông lanh lợi thông minh.
Có Hồ Nương Tử theo mình hộ thân.
Gia tiên ông độ rần rần.
Có Ông Tổ Cậu trong thân hộ trì.
Ông xưa Chí Thánh nghiêm nghì.
Ông xưa Thượng cõi uy nghi bá tòng.
Ông xưa Thánh chín bệ rồng.
Ngày nay ông xuống trần hồng giúp dân.
Nay ông hóa kiếp yêu thân.
Hào quang vẫn tỏ hút thân yêu tà.
Quỷ ma bu bám khắp nhà.
Âm tà vạn nẻo đến mà tìm ông.
Ông nay sáng tỏ mênh mông.
Ái tình ông khổ khóc ròng ông ơi.
Tánh ông vui vẻ tùy thời.
Bán buôn lanh lợi kiếm lời sinh nhai.
Ông chuyên làm phước giải tai.
Tổ chưa chứng sắc thử tài ông xem.
Tánh ông thương gái hết lòng.
Thương ai thương hết trần hồng giúp cho.
Ông nay mắc nạn giữa đò.
Ông nay buông bỏ chuyện trò tâm linh.
Bởi ông giác ngộ nhân sinh.
Tu thân giữ mạng chân linh bảo toàn.
Ai mà hại phá mỏi mòn.
Âm tà vạn nẻo hại còn mạng chi.
Bởi ông đạo pháp vô vi.
Âm tà theo sát phò nghi Thánh ngài".
Khuyên ông bớt chớ có hài.
Họa từ cái miệng gia tài mòn tiêu.
Gia tiên khiển phạt bao điều.
Tánh ông nói gỡ nói liều khổ thân.
Nói rồi tổn phước lần lần.
Cửa nhà suy sụp tiền trần tiêu tan.
Khuyên ông cầu nguyện vái vang.
Sớm hôm cúng lạy an nhàn tấm thân".
Gấu Vũ Ca khoái chí vỗ bàn khen hay. Định trả tiền mà Bà Đồng Linh vẫn từ chối. Gấu lạy tạ cảm ơn rồi rời đi. Phàm trần cũng chấp tay xá chào Bà Đồng Linh rồi đi dạo quanh chợ quỷ.
Trời về chiều. Vạn Ác Tà Vương phàm trần quay về nhà tranh Bãi Sậy, tắm gội, thay xiêm y. Vẫn là tấm vải trắng to. Quấn thành y áo lộ tay phải. Một phong cách hết sức Ấn Độ. Phàm trần ra sân ngồi trên chiếu bông. Tuyết Nữ dọn cơm. Ăn cơm chiều xong. Phàm trần ngồi uống nước trà. Đến tối, các môn đồ cùng chúng ma tề tựu trước sân.
Phàm trần mới bắt đầu kể chuyện cho mọi người nghe. Phàm trần nói. Hễ một bậc tu hành giả. Là phải có được tam thân. Vậy tam thân là gì. Ta sẽ lấy ví dụ cho các ngươi rõ. Về chính bản thân ta.
Pháp Thân: là cái cổ xưa cao quý chân thật và không dời đổi là Hật Ly Bàn Chi Câu La Diễn. Cổ thân thể đầu tiên hình thành trong vũ trụ là tên chèo đò viễn cổ. Chính là pháp thân của ta.
Báo Thân: là Mo Sư Lò Dong. Một đại tu hành giả của một thời kỳ xưa cổ tích tụ vạn năng là một tinh hoa thực thể tâm linh hiện tại nằm bên trong bản thân thể này.
Hóa thân: Tức là cổ thân thể các ngươi hiện thấy hiện quen biết như Phàm Trần, Vạn Ác Tà Vương, Bại Hoại Thiên Sư, Đế Tục Đại Sư. Đế Tục Thượng Thần.
Phàm trần lại nói tiếp. Hôm nay cũng không có chuyện gì. Vạn Ác Tà Vương ta chẳng qua tức cảnh sinh tình. Nhớ lại Báo Thân ta. Tức Mo Sư Lò Dong đại tu hành giả cổ xưa, quyền nghiêng thiên hạ, cai quản bốn mường mo. Nay muốn kể cho các ngươi nghe. Về một kiến thức cổ xưa. Thời đại Mo Sư Lò Dong cai trị.
Để chúng yêu ma các ngươi có một cái nhìn thú vị mới về vũ trụ nhân sinh. Mo Sư Lò Dong ta sẽ kể cho các ngươi nghe về lịch sử Mo Mường. Chặng đường sử thi vĩ đại. Hình thành trời đất vạn vật.
Để tránh nhàm chán. Mo Sư Lò Dong ta. Sẽ nói khái quát tóm tắt về sự hình thành vạn vật hồi ta còn làm dân tộc và so sánh triết lí với thời đại nhân loài trong nhân sinh đa số. Các ngươi chú ý lắng nghe. Có rất nhiều thuyết kể về thuở trời đất tối tăm hình thành vũ trụ. Nhưng chỉ có Vạn Ác Tà Vương ta trong một thuở xưa Báo Thân luân lạc vào cổ quốc Mo Mường.
Thế giới cổ xưa có ba tầng, và bốn mường. Ba tầng đó là.
Pưa tịn( vùng dưới).
Pưa bằng( vùng bằng).
Tlời( trời).
Ba tầng thế giới lại chia thành bốn mường tức là bốn cõi giới khác nhau.
Mường ma là cõi giới của linh hồn. Cõi giới này thuộc cạn do Vua Hoàng Xiền cai quản.
Mường pua khú ( tức là mường vua thuồng luồng). Cõi giới này thuộc nước do Vua Khú cai quản.
Mường mọl( tức mường người). Cõi giới này gồm con người và muôn vật sinh sống. Con người là chủ nhân của cõi này.
Mường tlời( tức mường trời). Mường trời do Vua Trời và các vị thần cai quản. Đồng thời cai quản cả mường người. Tục truyền rằng.
Thuở xưa dưới đất chưa có đất, trên trời chưa có trời. Đất còn rời rạc, nước còn bùng nhùng. Có một năm mưa dầm mưa dãi. 50 ngày nước rút, mọc lên một cây xanh có 90 cành. Những cành trên cùng có ông Thu Tha, bà Thu Thiên. Ông bà đã tạo ra cây cỏ và các loài tôm cá. Đó là Đẻ Đất. Rồi hạn chín tháng trời, nắng mười hai năm xác đất. Ông Pồng Pêu (thần nước) cầu ước mưa. Mưa dầm dề, mưa rào rào. Đó là Đẻ Nước.
Trên đất trũng mọc lên một Cây Si cao tới tận trời. Sâu Hốc sâu Giang đυ.c hết lõi cây. Cây đổ, 1919 cành Si thành 1919 đất mường. Đó là Đẻ Mường. Cây Si còn hóa ra Mụ Dạ Dần. Mụ Dạ Dần đẻ ra Cun Bướm Bạc, Cun Bướm Bờ. Cun Bướm Bạc và Cun Bướm Bờ lấy các nàng tiên trời đẻ được 10 con. Con út là Trống Chim Tùng, Mái Chim Tót. Chim này đẻ trứng Chiếng. Trứng vuông nở thành người, trong đó có ông Dịt Dàng, Đá Cài, Lang Cun Cần và nàng Vạ Hai Kịt. Đó là Đẻ Người.
Thủa ấy có ông Cuông Minh Vàng Rậm, có nàng Ả Sấm Trời đúc ra 9 chín mặt trời, 12 mặt trăng. Nắng gay gắt. Họ nhà Ngao thần Nỏ Ná bắn rơi 8 mặt trời, 11 mặt trăng. Ông Thu Tha, bà Thu Thiên truyền làm năm tháng. Mỗi năm có 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. Có năm đầy năm vơi, có tháng no tháng thiếu...
Sử thi bao quát từ khi mở ra đất ra nước, sinh ra con người, lập nên thủ lĩnh Mường... cho đến khi rước Vua về vùng Đồng chì Tam quan Kẻ chợ, hoàn thành công cuộc dựng nước của người Mường.
Người Việt (người Kinh) nhân tộc và người Mường được biết là 2 tộc người có quan hệ nguồn gốc rất gần gũi, nên rõ ràng lịch sử nguồn cội của người Mường cũng chính là lịch sử tổ tiên người Việt. Thực vậy, các nhân vật, sự kiện được kể trong suốt sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước hoàn toàn trùng khớp với huyền sử thời Hùng Vương của người Việt. Đẻ Đất Đẻ Nước không gì khác là sự tích Lên Núi Xuống Biển của trăm họ người Việt thời Hùng Vương.
Quan niệm về khai sinh vũ trụ của người Mường hoàn toàn trùng với của người Kinh nhân tộc miền xuôi.
"Nhớ từ Thái cực sinh ra
Trên trời dưới đất giữa hòa nhân gian.
Người nhân tộc miền xuôi có câu thơ.
"Thái cực nhất nguyên thiên địa thủy
Viêm Giao Bàn Cổ đế vương tiên".
Ông Bàn Cổ trên đất Viêm Giao đã dùng rìu bổ vỡ khối hỗn mang Thái cực ban đầu mở ra trời – đất. Ông Bàn Cổ với chiếc rìu sáng thế khổng lồ tương ứng với Mụ Dạ Dần và Cây Si trong sử thi Mường. 4 hình tượng Bướm Bạc, Bướm Bờ, Chim Tùng, Chim Tót là 4 tượng trong Thái cực đồ: Thái Âm, Thiếu Âm, Thái Dương, Thiếu Dương. Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng biến hóa vô cùng. Thái cực đồ với Tứ tượng chính là quả trứng Chiếng hình vuông đã biến hóa vô cùng mà Đẻ Người.
Người đúc ra Mặt trời là Phục Hy, vị thần hướng Đông (hướng mặt trời mọc), được sử thi Mường gọi là Cuông Minh Vàng Rậm. Chữ Cuông Minh nghĩa là Quang Minh, chỉ vị thần tạo ra ánh sáng. Người đúc ra Mặt trăng là Nàng Ả Sấm Trời, tương ứng với Nữ Oa. Cặp thần thoại Phục Hy – Nữ Oa trong quan niệm xưa gắn với Âm Dương (Mặt trăng – Mặt trời) và Tứ tượng. Trong dân gian người Việt thì Phục Hy - Nữ Oa được gọi là Ông Đùng - Bà Đà.
Hùng Vương Thánh Tổ Tổ Ngọc phả, phần Lịch kỷ họ Hùng chép rõ về thời kỳ thần thoại:
“Xét như tiếng đức Tiền hoàng đế thời Thái cổ, từ kỷ Tam Hoàng Ngũ Đế đến nay, theo nguyên mệnh của xuân thu, bao gồm thời mở mang hồng hoang trước trời đất. Trời ban đầu mở vào Giáp Tí. Đất tụ mang ở Ất Sửu. Vận người sinh ở Giáp Dần. Vạn vật ra đời ở gian Ất Mão. Từ thời Bàn Cổ, Thái cực sinh Lưỡng Nghi, là Thiên Địa. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, là Thái âm, Thái dương, Thiếu âm, Thiếu dương. Tứ tượng biến hóa thành nhiều hình trạng.
Thời Hỗn Mang còn chưa biết đạo trời đất khởi đầu thế nào, đến Âm dương biến làm Tam tài, vị quân thủ dẫn đường dần dần mở ra phong khí, dần dần có văn minh, làm rõ ràng các giáo lý trị dân. Trời xuất hiện nhiều bậc đại thánh. Cha trời Mẹ đất là Thiên tử xuất hiện đầu tiên. Sau đến các vật ở vạn nước được yên định, nhận trọng trách lớn như thế sao.
Thiên Hoàng nối Bàn Cổ mà trị ở ngôi Thiên tử, nắm quyền chế độ, mới chế ra Can chi. Mười can là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ Canh, Tân, Nhâm, Quý. Mười hai chi là Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Vị, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Lấy đó để định thời gian, giúp nhân dân biết phương hướng. Cứ mỗi đời có bậc quân vương lại tất có sự sáng chế của quân vương đó. Các vua sau từ đó noi theo trăm đời không lay. Lấy việc giải quyết cho dân làm khó. Lấy sự an định làm nguy. Xem hiền mà sửa mình.
Địa Hoàng định hai thời phân làm ngày đêm, lấy ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm. Gộp những sai lệch mà bày ra nhuận, cuối cùng thì phục hồi lại thời gian như ban đầu, lấy thời khí theo đó. Các anh em của người cứ một vạn tám ngàn năm là chúa tể thiên hạ các phương, sáng chế lập ra pháp luật, ban bố vạn đời. Khiến cho hậu thế đều biết được chỗ sáng tối, tháng năm như thế”.
Thiên Hoàng, Địa Hoàng hay Cha Trời, Mẹ Đất tương ứng với bà Thu Thiên, ông Thu Tha trong sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước, là những người đã tạo ra năm tháng cho hậu thế biết phân thời gian. Họ nhà Ngao bắn rơi Mặt trăng Mặt trời tương ứng với truyền thuyết Vua Nghiêu (Ngao – Hữu Ngu) đã sai thần tiễn thủ Hậu Nghệ bắn hạ Mặt trời, cân bằng lại Thái cực, tạo nên một vũ trụ yên ổn, phân định trời đất, ngày đêm.
Có thể thấy quan niệm lịch sử Hùng Vương hoàn toàn trùng với giai đoạn mở đầu của sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước, từ việc Mụ Dạ Dần – Bàn Cổ mở trời đất, sinh Thái cực, Thái cực sinh vạn vật, đến việc Cha Trời Mẹ Đất phân chia thời gian, giữ yên vũ trụ.
Có một hiền giả đã nói rằng.
Vũ trụ mơ màng,
Càn khôn xếch xác.
Vua Bàn Cổ khai lò tạo hoá, hồng mông đà phơi phới hơi xuân.
Họ Hữu Ngu khơi mạch sơn hà, cương giới vẫn rành rành dấu tạc.
Đó là Vạn Ác Tà Vương ta nói gọn tóm tắt. Chứ vào thời đại ta làm Mo Sư Lò Dong ta được Đức Đại Năng Tổ Mo Khun Khùn Giọt truyền lại thiên thư sử thi rất kỹ lưỡng. Nay ta sẽ đọc cho các ngươi nghe.
Thuở xưa, trời sinh trước ở trên, đất sinh sau ở dưới. Đất có mười, nhưng trời chỉ có chín, vì thế trời úp không trọn đất, đậy không vừa đất. Bà Nhần ở trên trời xuống nặn đất cứng thành núi, gạt đất mềm thành đồi, rồi trời với đất mới vừa nhau. Đến một ngày, có sự giao phối của một loài chưa có tên, nở thành trứng Điếng. Trứng Điếng được ấp trong hang rồi nở thành con người. Lịch sử hình thành vũ trụ bắt đầu từ đây. Các ngươi chú ý lắng nghe.
Phần 1. Đẻ đất, đẻ trứng điếng.
Hâm mo o ò!.
Để lành lòng thường lành thân mo với Ông Mo Mường.
Dẫn Khang sai quân hầu tiểu hạ têm trầu ăn trên chiếu ngang.
Bổ cau ăn trên chiếu rộng.
Để trông trời, trông mưa, lại vừa ngó nắng.
Trở mặt ra phía rặng quèn ngoài.
Nổ Ông Mo Mường vào kể chuyện khi xưa.
Kể chuyện đời xưa cho Khang Ông được nghe.
Kể tích, nói vè chuyện khi xưa cho khang Ông được biết.
Kể hết Mụ Dịt ấy đến Mụ Dàl.
Hết tuông một đến tuông hai.
Khi xưa với lại đời xưa.
Khi ấy cái trời ra trước cà "khật".
Cái đất ra sau cà "khời".
Trời ra trước ở trên.
Đất ra sau ở dưới.
Trên trời đặt làm chín.
Dưới đất đặt làm mười.
Khi ấy cái trời ở trên úp không trọn.
Nắp ở trên không vừa.
Bà Nhần xuống mường trần tình dương gian đặt làm bốn phương.
Đặt ra phương đông, phương tây, phương nam, phương bắc.
Bà Nhần thu đất lại.
Nắn đất rắn thành núi.
Vun đất mềm lại thành đồi.
Phương Bắc đặt làm chỗ cao.
Thu lại nhiều đồi cao, núi cao.
Phương Nam đặt làm chỗ trũng.
Nén đất xuống thành bể, thành sông.
Cho con cá, con khú, con rồng ở dưới nước.
Các đồi núi cao nó cho chim chóc, muôn loài, muôn hươu, muôn nai, sơn dương, con lừa ở.
Bưa đất bãi bằng cho con người trần tình dương gian ở.
Đặt làm chợ, mở làm hàng.
Làm đường đi sá lại.
Bà Nhần thu đất lại đã thấy vừa.
Trời ở trên úp đã trọn.
Nắp ở trên đậy đã vừa.
Bà Nhần mới lên mường trên núi, trên trời, trên cao.
Bà Nhần có cái gương thần to.
Thu mường trần tình dương gian ở đâu cũng thấy.
Khi ấy nó mới cho dây sắn ra trước vặn vẹo.
Cho dây tàinh ra trước gϊếŧ chó.
Dây khọ ra trước néo bừa néo cày.
Ngoằn ngoèo dây bố.
Đổ đất đổ nước.
Sâu nước, sâu hùm, sâu gỗ.
Chàng Mách đặt cho măng sậy ra trước vắt vẻo.
Cây ngái kèo ra trước lớn nhanh.
Cá bống ngắn đuôi.
Cho thài lài lan đất.
Mật cỏ đắng, bông sung bông bệ.
Cây khế, cây nhò.
Cánh chim ác, gác sông gác sào.
Con sao, con sáng.
Áng con khú, con rồng.
Đồng ruộng con khỉ độc, con vọc.
Đầu đồng là của cun quan Kẻ Chợ.
Bỗng nhiên thấy một đôi chim Chạng, với một đôi chim Chò.
Chim Chạng là đứa hay lo.
Chim Chò hay đối, hay hót.
Nó hót ra bên đông được gió ào ào.
Nó hót ra bên nam được gió cuộn cuộn.
Uốn đất uống nước.
Các sông các sào.
Con sao con sáng.
Áng con khú con rồng.
Đồng ruộng con khỉ độc, con vọc.
Con nước đầu ruộng là của cung quan kẻ chợ.
Bỗng nhiên thấy một đôi chim Xong, nó đi đằm sông, đằm bể.
Nó thấy khót nhỏ nhắn, cho vào túi da trâu da bò.
Về đến đất chật mường hẹp.
Đánh rơi xuống sông.
Cát ở dưới, nước ở trên.
Rễ cây si ăn xuống không được một gang.
Rễ cây si ăn ngang không được một thước.
Chết mất đời cây si đi vắng vắng.
Vắng đi vờ vờ, giống như thể khi xưa chưa từng có.
Bỗng nhiên.
Thấy đất đen ra đầy miệng ang.
Thấy đất vàng ra đầy miệng bát, miệng đĩa.
Thọi vọi cây si mọc.
Thóc chóc cây si lên.
Ban sớm cây si lớn tài cái chày.
Ban trưa nữa ngày lớn tày đυ.n mười bốn.
Ngồn ngộn như đυ.n mười ba.
Nó chia cành, chia bóng.
Đơm bốn mươi rễ, bảy mươi cành, mười bóng.
Gốc cây si mọc dưới đất.
Ngọn cây si mọc khất lên trời cao.
Con khú đen leo theo cây si lên ăn hết mặt trăng.
Con khú trắng leo theo cây si ăn hết nữa mặt trời.
Mặt Trời nổi cơn dữ, cơn hờn.
Dậy nung gậy sắt cho con sâu ấy cạp vào miệng.
Sâu hà ăn trong.
Nó moi lòng, móc lõi cây si.
Rồi cây si đổ xuống rộc.
Bà Nhần vào xem.
Thấy chân chiêu có con vắt.
Thấy mắt cây si có con sâu.
Miệng cây si có sâu bà Nhần.
Bà Nhần ước nương tốt kế, tốt cà.
Ruộng đồng lúa, tốt cơm.
Giếng nước thành đôi con cá.
Đường nước nên đôi con tôm.
Tối hôm sáng mai nên sao nên sáng.
Nên áng con khú, con rồng.
Đồng ruộng con khỉ độc, con vọc.
Con nước đầu đồng là của cun quan kẻ chợ.
Bỗng nhiên thấy một đôi chim Chêu nó đi đằm sông.
Tháng bốn con nhà người túm đôi lông lần.
Chúng cũng túm đôi lông lần.
Túm đôi lông lần thấy như thể đạp.
Tháng hai cùng ba con nhà ngài túm đôi lông là.
Chúng cũng túm đôi lông là.
Thấy như thể chấy cắn.
Thấy rận đè nhau cặp cặp.
Ấp nhau kè kè.
Thấy động trong eo lưng.
Thấy rần rật trong lòng.
Như người nuốt phải rêu đá.
Dấu diếm không cho ai hay.
Có người vào tâu cùng rùa, vào lo cùng vua Nhần.
Vua Nhần phải cho vào tâu với rùa.
Tâu Vua Nhần ngài hỡi.
Lạy Vua Nhần ngài à.
Tâu cùng Nhần, xin Nhần hãy lo.
Tâu cùng rùa, xin rùa hãy dạy.
Không biết xin vua Nhần hãy bảo.
Vua Nhần mới bảo rằng.
Cái ấy mặt ma trời muốn cho chúng bay thành tông thành rõi.
Bay phải đi rèn lấy mỏ sắt.
Đập lấy mỏ gang.
Bay phải đυ.c núi vàng hang ma trứng điếng để làm tổ.
Bay phải mổ núi vàng hang ma trứng điếng để làm lỗ.
Chiều cao bay phải đυ.c chín sào.
Chiều rộng bay phải đυ.c chín thước.
Nghe tiếng ấy thấy vui.
Nghe lời ấy thấy mừng.
Rồi quay chân trở lại, trái chân trở về.
Về đến đυ.n cùng nhà.
Để rèn cái mỏ sắt, đập cái mỏ gang.
Mới đi đυ.c cái núi vàng hang ma hang ma trứng điếng ấy làm tổ.
Mổ cái núi vàng hang ma hang ma trứng điếng ấy làm lỗ.
Chiều cao đυ.c chín sào.
Chiều rộng đυ.c chín thước.
Rồi đi đằm sông, đằm bể.
Nhặt được khót nhỏ nhắn.
Cho vào túi da trâu, da bò.
Rồi vào ấp trứng vua, trứng nàng.
Trứng sang, trứng cả.
Ở trong núi vàng hang ma hang ma trứng điếng.
Năm này cho đến năm nọ.
Thấy động đậy trứng điếng muốn đẻ.
Thấy nứt nẻ trứng điếng muốn ra.
Đẻ ra lốm đốm là hình ngôi sao.
Nghêu ngao là hình cái sáng.
Rạng rạng là mặt trời.
Dưới đất còn chưa đủ.
Trên trời còn chưa có.
Dưới đất chưa có sương, có mù.
Chưa có khói, đυ.c đυ.c.
Chưa có mưa lói xói.
Chưa có nước.
Chưa có cây sậy.
He nhe là tuông con rắn.
Hánh nhánh là tuông con mèo.
Teo ngeo là tuông con cóc.
Có cành là tuông con hươu.
Hái nhái là tuông con trâu con bò.
Tuông voi, tuông ngựa.
Tuông con trai, con gái.
Dưới đất cũng đã đủ.
Trên trời đã có.
Đẻ ra trứng thứ nhất là trứng Tá Cần.
Trứng thứ hai là trứng Tá Cài.
Trứng thứ ba ấy là trứng chàng chài.
Trứng thứ bốn ấy là trứng anh mo gốc, mo cổ.
Động đậy trứng điếng muốn đẻ.
Thấy nứt nẻ trứng điếng muốn ra.
Đẻ ra nhắc nhẻ tiếng Kinh.
Nhao nhao tiếng Mường, tiếng Thái.
Chọ chẹ tiếng Ngô, tiếng Lào.
Cái trời sinh ra từ năm Tý.
Đất ra sau năm Sửu.
Con người sinh ra vào năm Dần.
Có trời, có đất mới sinh ra vạn vật.
Hết lứa già cho đến lứa trẻ.
Một năm đặt làm bốn mùa.
Xuân hạ thu đông.
Vẫn tính như thế mãi.
Hết bãi rải đầy khoang.
Hết cái núi vàng hang ma trứng điếng làm ổ.
Mới đổ đi mọi chốn.
Trong năm nước chư hầu.
Ở đâu cũng có.
Kể trọn chuyện ấy cho Khang Ông được biết lại vừa được hay.
Để sáng mai về ngày cho Khang được nhớ.