Không đến nhìn cảnh Kurda bị hành hình, cũng không ở lai phiên tòa xử đám ma-cà-chớp, tôi trở về phong, ở lì trong đó cho tới khi đám tang bà Arra, ông Gavvner và các ma-cà-rồng tử trận tổ chức vào đêm mai. Sau trận đánh, Kurda đã cho đám lính gác biết nói giấu xác Gavner trong một khe đá sâu gần chân núi.Con Sọc và bạn nó cũng đã lẳng lặng bỏ đi khi trận đánh kết thúc. Tôi không có dịp chào và cám ơn chúng. Không biết bao giờ tôi lại được chạy chơi cùng bầy sói? Dù tôi có được các ông hoàng tha mạng, hình như chuyện gặp gỡ lại chúng là điều khó có thể xảy ra. Cuốc họp Hội đồng sắp kết thúc, lũ sói sẽ phân tán, trở lại những miền đất săn bình thường để tìm mồi. Có lẽ những ngày qua là lần gặp gỡ cuối cùng của tôi với con Sọc, nhóc Rudi và cả bầy.
Lợi dụng thời gian giữa các phiên tòa và đám tang, tôi viết nhật kí. Từ khi lên Núi Ma-cà-rồng tôi không chạm tay đến cuốn tập này. Đọc lại những gì mình đã ghi chép trước đây, rồi tôi bắt đầy viết về tất cả những chuyện đã xảy ra từ lúc tôi rời Gánh Xiếc Quái Dị, lên núi với ông Crepsley. Tôi mê mải viết, nên thời gian qua rất nhanh. Thường thường tôi không tha thiết viết lách lắm- y chang làm bài tập ở nhà- nhưng khi đã bắt đầu, chữ nghĩa ào ào tuôn ra, không phải có cố gắng. Tôi chỉ ngừng lại vài lần để ăn và ngủ chừng một hai tiếng.
Hy vọng viết ra trên giấy, sẽ giúp tôi sáng suốt hơn, nhất là những suy nghĩ về Kurda. Nhưng viết xong, tôi vẫn cứ bối rối như lúc mới bắt đầu. Dù nhìn vấn đề dưới khía cạnh nào, tôi vẫn cảm thấy Kurda vừa là một người hùng vừa là một tên tội phạm. Mọi sự sẽ đơn giản hơn nếu ông ta chỉ là một trong hai. Quá phức tạp. Tôi không thể phân biệt rạch ròi được.
Kurda muốn tránh cho ma-cà-rồng khỏi bị hủy diệt. Để đạt mục đích đó, ông ta đã phản bội họ. Như vậy là có tội không? Hay hành động cao thượng, để mặc đồng loại bị hủy diệt mới là có tội? Người ta có nên chân thật với bằng hữu bất chấp mọi hậu quả không? Khó quá! Một phần tôi căm ghét Kurda và tin rằng ông ta đáng phải chết, nhưng phần khác lại nhớ những dự định tốt đẹp và thái độ thân thiện vui vẻ của ông, và mong sao có cách trừng phạt khác, để ông tránh khỏi án tử hình.
Đang viết thì ông Crepsley gọi tôi và Harkat. Kẹp cây bút giữa trang giấy để đánh dấu, tôi theo ông ma-cà-rồng ủ dột tới Phòng Hỏa táng, để vĩnh biệt những người bạn yêu quý.
Vì chết trước, nên ông Gavner được thiêu đầu tiên. Trong bộ áo trắng đơn giản, ông được đặt nằm trên một cái cáng mỏng trong lò thiêu. Ông nằm thanh thản, mắt nhắm, mái tóc nâu ngắn chải thẳng thớm, môi hơi nhích lên như mỉm cười. Tất cả là do công lao của Giám hộ Máu. Dù tôi biết họ đã lấy hết máu, nột tạng và óc của ông, nhưng không một dấu vết nào cho thấy công việc quái đản của họ.
Vừa mở miệng định cho ông Crepsley biết những lời nói sau cùng của ông Gavner, tôi bật khóc. Choàng tay ôm tôi, ông Crepsley để tôi tấm tức khóc trên ngực ông, rồi hỏi:
- Cháu muốn ra khỏi đây không?
- Cháu muốn ở lại. Nhưng ông biết đó... làm sao có thể không khóc được.
- Ta biết.
Hai mắt ông cũng long lanh ướt.
Một đám đông tụ tập để tiễn biệt ông Gavner. Thường thường, chỉ có bạn bè thân thiết nhất, hoặc các cộng sự mới dự đám tang, Ma-cà-rồng khác với con người- họ không tin phải xuất hiện trong đám đông mới là bày tỏ sự thương tiếc. Nhưng Gavner là người được hâm mộ đã chết để bảo vệ người khác, vì vậy trong hang chật cứng. Kể cả hai ông hoàng Paris và Arrow. Nếu không phải ở lại trông coi Cung Ông Hoàng, Mika Ver Leth cũng đã có mặt.
Ma-cà-rồng không có thầy tu. Không có tôn giáo chính thức. Nhưng họ có thần llinh và đức tin riêng. Ông hoàng Paris, ma-cà-rồng già nhất hiện diện, khởi xướng buổi lễ bằng mấy lời đơn giản:
- Tên ông là Gavner Purl.
Tất cả ngân nga lập lại
- Ông đã chết trong danh dự.
Chúng tôi lập lại.
- Cầu xin linh hồn ông về cõi bồng lai.
Trong khi chúng tôi ngân na những lời sau cùng đó, hai Giám hộ Máu châm lửa vào cành lá khô bên dưới thi thể ông Gavner, làm một dấu hiệu đặc biết lên người ông, rồi lặng lẽ lui ra.
Giám hộ Máu rất thành thạo công việc. Xác ông Gavner được thiêu xong rất nhanh. Chưa bao giờ tôi dự một buổi hỏa táng, nên ngạc nhiên thấy mọi chuyện không quá phức tạp như tôi tưởng. Nhìn ngọn lửa nhấn chìm ông Gavner, tôi có một cảm giác an lành kỳ lạ. Khói dâng cao, lách qua những kẽ hở trên mái hang, dường như lình hồn ông Gavner đang phiêu diêu, bay bổng về chốn xa xôi...
Tôi mừng là đã đến đây, nhưng khoan khoái bị đẩy ra ngoài khi các Giám hộ Máu thu nhặt xương ông Gavner, bỏ vào những cái gối rải rác quanh lò thiêu, để giã.
Thêm ba ma-cà-rồng nữa được thiêu, trước khi đến lượt bà Arra. Trong khi ông Crepsley, Harkat và tôi đang đứng chờ bên ngoài, cụ Seba và ông Vanez Blane xuất hiện. Vị sĩ quan quân nhu khập khiễng dìu ông thầy võ mù. Hai ông chào hỏi, rồi xin lỗi vì đã vắng mặt trong lễ tang ông Gavner, vì ông Vanez phải chữa trị mắt và chờ thay băng.
Ông Crepsley hỏi:
- Mắt anh sao rồi?
- Tiêu! Bây giờ tôi mù tịt như một con dơi rồi.
Vanez vui vẻ nói như... chỉ là chuyện nhỏ. Ông Crepsley bao:
- Tôi tưởng từ lúc được chữa trị, mắt anh...
- Chữa trị để ngăn chặn nhiễm trùng lây lan tới óc thôi.
Nhìn mănh băng to đừng bịt kín mắt ông, tưởng tượng nếu mình bị mù tịt chắc kinh khủng lắm, tôi bảo:
- Trông ông có vẻ.. bình tĩnh lắm...
Ông nhún vai:
- Còn mắt thì tốt, mất mắt cũng đâu phải là tận thế đâu. Ta vẫn còn có thể nghe, ngửi, rờ được lối đi. Cũng phải mất một thời gian mới quen, tuy nhiên khi mất con mắt đầu tiên, ta đã tập thích nghi rồi. Chắc chỉ một giây, ta sẽ có thể nắm bắt được phương hướng ngay.
Ông Crepsley hỏi:
- Anh sẽ xuống núi chứ?
- Không. Nếu là lúc khác, tôi sẽ đi khắp nơi cho đến khi chấm dứt đời mình trong danh dự như cung cách của một ma-cà-rồng đui mù rồi. Nhưng cụ Chúa tể Ma-cà-chớp bắt buộc tôi phải đổi ý. Ông hoàng Paris yêu cầu tôi ở lại. Ít ra vẫn con có ích, dù chỉ phụ kho hay nhà bếp. Lúc này, ca-cà-rồng nào cũng cần thiết. Tôi sẽ làm thay cho những ma-cà-rồng trẻ hơn, thích hợp với cuộc chiến chống lại ma-cà-chớp hơn.
- Tôi cũng sẽ hoãn lại chuyện về hưu. Hoãn lại chuyến phiêu lưu quanh thế giới. Cho dù tuổi già sức yếu cũng phải tham gia. Đây không còn là lúc đặt quyền lợi cá nhân trên quyền lợi của thị tộc được nữa.
Lời nói của ông làm tôi nghe choáng váng. Những ngày mới tới đây, tôi đã được nghe Kurda phát biểu giống như vậy. Kurda cho rằng những ma-cà-rồng thương tật và già yếu bị đồng loại bỏ rơi là một sai lầm. Thật cay đắng khi sự phản bội để dẫn tới cái chết của ông, lại làm đổi thay tư tưởng của các ma-cà-rồng khác.
Ông Crepsley hỏi cụ Seba:
- Vậy có nghĩa là công việc của huynh sẽ không chuyển giao cho kẻ khác nữa?
- Đúng vậy. Nhưng ta tin chắc, các ông hoàng sẽ tìm được một việc cho đệ. Lau sàn nhà chẳng hạn.
Nghe thầy cũ cười nói, ông Crepsley gượng cười:
- Có thể. Ông hoàng Mika đã yêu cầu đệ ở lại, có lẽ sẽ phục hồi chức tướng quân cho đệ. Nhưng đệ chưa quyết định khi chưa có thời gian suy nghĩ kỹ việc này.
Ông Vanez hỏi:
- Còn Darren? Các ông hoàng đã tuyên bố số phận của nó chưa?
- Chưa. Ông hoàng Mika hứa sẽ mở lại một buổi thảo luận ngay sau lễ tang. Tôi tin nó sẽ được tha bổng.
Vẻ không tin tưởng lắm, nhưng ông Vanez cũng nói:
- Tôi... hy vọng thế. Vì các vị biết rồi đó, án tử hình chưa bao giờ được hủy bỏ. Trừ khi các ông hoàng phải thay đổi luật pháp để cứu mạng Darren.
Ông Crepsley tức giận tiến một bước, nói như quát:
- Vậy thì họ nên thay đổi luật đi.
Cụ Seba ngăn lại:
- Bình tĩnh, Larten. Vanez chỉ nói sự thật thôi mà. Vụ án này không bình thường, bằng cách này hay cách khác, cũng sẽ đòi hỏi cân nhắn kỹ, trước khi đi đến quyết định sau cùng.
Ông Crepsley quả quyết:
- Không có chuyện “cách này hay cách khác” được. Tôi đã thề với Arra, không để Darren bị gϊếŧ. Arra bảo, Darren đã giành được phần thưởng để có quyền được sống. Kẻ nào bàn cãi lời trăng trối của bà ấy, sẽ phải đương đầu với tôi. Chúng tôi đã phải khắc khoải chịu đựng cái chết quá đủ rồi. Tôi không bó tay chờ đợi thêm được nữa.
Cụ Seba thở dài:
- Hy vọng là sẽ không đến nỗi nào. Ta tin, các ông hoàng sẽ thông cảm. Có thể, dù không bẻ cong luật pháp, nhưng trong vụ này các ngày sẽ đành phải... phạm luật.
Ông Crepsley bảo:
- Họ làm vậy là tốt...
Đúng lúc đó thi hài bà Arra được chuyển vào Phòng Hỏa táng. Ông Crepsley thẫn thờ, lưu luyến nhìn theo. Cụ Seba và tôi choàng tay quanh người ông. Cụ Seba thì thầm:
- Can đảm lên, Larten. Bà ấy không thích bi lụy quá đâu.
- Đệ sẽ cố giữ bình tĩnh. Nhưng...
Ông nghẹn ngào tiếp:
- Nhưng nhớ quá! Đệ nhớ Arra bằng tất cả linh hồn và thể xác.
Khi thi thể bà Arra đã yên vị, cửa mở, và chúng tôi bước vào. Ông Crepsley đi trước, rồi tới cụ Seba, ông Vanez, tôi và Harkat. Ông Crepsley tỏ ra bình tĩnh như đã hứa. Thậm chí ông không nhỏ một giọt nước mắt khi lửa bùng lên trong lò thiêu. Chỉ đến khi trở về phòng, ông òa lên khóc. Tiếng khóc của ông vang vọng suốt các hành lang, xuyên qua những đường hầm, l*иg lộng tới tận cảnh bình minh cô đơn lạnh lẽo bên ngoài Núi Ma-cà-rồng.