Chúng tôi vượt qua đầu nguồn, nơi con suối đổ từ núi xuống.m thanh chói lói, nhất là đối với những cái tai siêu nhạy của ma-cà-rồng, vì vậy chúng tôi hết sức đi thật nhanh. Đá trơn trợt, nên nhiều lúc chúng tôi phải nắm tay nhau.Tới một đoạn phủ đầy băng, cả tôi và ông Gaver đều bị trượt ngã. Tay tôi tuột khỏi tay ông Crepsleyepsley. May nhờ có Harkat túm lấy ông Garver, kéo hai chúng tôi lên.Khoảng mười lăm phút sau, chũng tôi tới cửa đường hầm. Mới leo không được bao lâu, nhưng nhìn xuống, thấy dốc sâu thăm thẳm, tôi mừng thầm vì không phải leo lên cao hơn nữa.
Ông Crepsleyepsley tiến vào trước. Trong đường hầm tối thui. Vừa định hỏi ông Crepsleyepsley, chúng tôi có phải dừng lại để dốt đuốc không, tôi chợt thấy, càng vào sâu, đường hầm càng sáng hơn. Tôi hỏi:
-Ánh sáng từ đâu vậy kìa?
Ông Crepsleyepsley bảo:
-Đó là loài địa y phát quang.
-Ông nói thật đấy chứ?
Gavner cắt nghĩa:
-Chúng là một loài nấm phát ra ánh sáng, mọc trong một số hang động dưới đấy một số vùng biển.
-Hay quá ta. Chúng mọc đầy trên núi chứ?
-Không đâu. Nhiều nơi không có loài nấm này mọc, chúng ta vẫn phải dùng đuốc.
Phía trước, ông Crepsley bỗng bật ra một tiếng rủa. Gavner hỏi:
-Chuyện gì vậy?
-Hầm bị sập. Không có lối qua.
-Nghĩa là chúng ta không vào trong được?
Tôi hoang mang hỏi, chỉ lo lại phải gian nan đi lại từ đầu. Nhưng ông Gavner nói ngay;
-Còn nhiều đường nữa. Núi này chằng chịt đường hầm. Lùi lại, tìm lối khác.
Ông Crepsley giục giã:
-Lẹ lên trường sắp sáng rồi.
Chúng tôi lết trở lui, lần này là Harkat dẫn đầu. Ra tới ngoài, chúng tôi mau chóng tìm ra một đường hầm khác, chỉ vài phút sau khi mặt trời mọc. Hầm này không lớn như hầm trước, nên hai lão Crepsley phải lom khom đi. Tôi và Harkat chỉ phải cúi thấm đầu. Dù không nhiều địa y phát sáng tại đây, nhưng cũng đủ cho những con mắt sắc bén của chúng tôi thấy đường.
Một lúc sau, tôi thấy, thay vì đi lên, chúng tôi lại đang đi xuống. Hỏi ông Gavner, ông bảo:
-Đường hầm là vậy, nhưng sau cùng nó lại đi lên.
Nửa tiếng sau, đường hầm đổi hướng, vòng lên, gần như theo chiều thẳng đứng. Chúng tôi lên rất khó khăn. Vách hầm bó sát chũng quanh và bảo đảm là không chỉ mình tôi khô cả miệng vì ráng sức. Nhưng chỉ một lúc sau, đường hầm trở nên bằng phẳng, dẫn vào một hang nhỏ. Chúng tôi ngừng lại nghỉ ngơi. Từ lòng đất dưới chân, tôi có thể nghe tiếng dòng suối chúng tôi mới vượt qua réo lên ùng ục.
Có bốn ngả ra khỏi hang này. Tôi hỏi ông Crepsley, làm sao biết ngả nào để đi. Ông bảo:
-Theo của đường hần đã được đánh dấu.
Rồi ông dắt tôi tới gần, chỉ một mũi tên nhỏ xíu được rạch dưới chân vách của một đường hầm. Tôi lại hỏi:
-Còn những ngả kia đi về đâu?
-Ngõ cụt, hoặc lên thẳng các lâu đài.
Lâu đài là tên họ gọi những nơi ở trong núi Ma-cà-rồng.
Ông nói tiếp, cảnh giác tôi:
-Còn nhiều đường hầm chưa được khám phá, nên chưa có bản đồ. Đừng đi lang thang một mình, rất dễ bị lạc.
Trong khi hai ông ngủ, tôi kiểm tra xem quý bà Octa có đói không. Con nhện độc này ngủ suốt chuyến đi vì ả không ưa trời lạnh – chỉ thỉnh thoảng thức dậy ăn, rồi ngủ tiếp. Đang mở miếng vải phủ l*иg, tôi chợt nhận thấy con nhện đang bò lại gần. Nó không to lớn như quá bà Octa, nhưng trông có vẻ đầy nguy hiểm. Nhảy lùi lại sau, tôi gọi lớn:
-Ông Gavner!
-Chuyện gì?
-Con nhện.
-Ồ...đừng lo! Trên núi thiếu gì nhện.
-Chúng có nọc độc không?
Vừa nói tôi vừa quan sát con nhện đang tò mò nhìn cái l*иg.
-Không. Chúng cắn chỉ như ong chích thôi mà.
Tôi mở hẳn miếng vải l*иg, thử xem thái độ của quý bà Octa ra sao, khi thấy con nhện lạ. Ả ngồi tỉnh bơ, không thèm quan tâm,trong khi con nhện kia bò lên l*иg. Tôi khá dành về loài nhện qua sách vở và những chương trình rành cho đời sống hoang dã trên TV – nhưng chưa bao giờ thấy một con nhện như thế này. Lông lá khá rậm rì, mắt vàng phát khϊếp.
Ngay sau khi con nhện lạ bỏ đi, tôi cho quý bà Octa ăn mấy con côn trùng, rồi phủ lại miếng vải. Nằm xuống bên hai ông Crepsley và Gavner, tôi cố chợp mắt vài giờ. Có lúc tôi tưởng như nghe tiếng trẻ cười đùa trong một đường hầm. Ngồi dậy, lắng nghe, nhưng tôi không nghe thấy gì nữa.
Ông Gavner ậm ừ nho nhỏ rồi hé mắt hỏi:
-Sao vậy?
-Trong núi này có trẻ con không?
-Không. Cho đến lúc này ta mời chỉ biết cháu là đứa trẻ độc nhất được truyền máu Ma-cà-rồng.
-Chắc là cháu tưởng tượng rồi.
Tôi vừa nói vừa ngáp, rồi nằm xuống lại. Nhưng trong giấc ngủ chập chờn tôi vẫn dỏng tai nghe ngóng.
Thức dậy, chúng tôi tiếp tục lên núi, qua cửa đường hầm được đánh dấu mũi tên. Sau một thời gian lâu như cả thế kỉ, chúng tôi tới trước một cửa lớn chặn cuối đường. Ông Crepsley sửa soạn tề chỉnh trước khi gõ ba tiếng lớn lên cánh cửa.
Ông gõ tới lần thứ ba, mới nghe tiếng động từ phía bên kia và cửa mở. Ánh đuốc láo sáng làm chúng tôi chói mắt, vì đã ở quá lâu trong đường hầm. Tôi bịt mắt cho đến khi quen dần với ánh sáng.
Một maCrepsley mảnh khảnh trong bộ quần áo lục sẫm bước rra, nhìn chúng tôi. Hắn nhíu mày, nắm chặt cây giáo dài, khi thấy tôi và Harkat. Phía sau hắn, tôi thấy lố nhố người cũng mặc áo xanh, tay đều cầm vũ khí.
Tên lính gác quát lên:
-Khai báo họ tên tại trạm.
Tôi đã được biết, đó là cách tiếp đón người mới tới.
Ông Crepsley lên tiếng:
-Larten Crepsley, với tham vấn Hội đồng.
-Gavner, tới tham vấn Hội đồng.
Harkat...Mulds, tới... tham vấn... Hội đồng.
Tên lính nói:
-Larten Crepsley và Gavner đã được nhận diện. Nhưng hai tên kia...
Hăn chỉ mũi giáo và tôi và Harkat, lắc đầu. Ông Crepsley lên tiếng ngay:
-Chúng là người đồng hành với chúng tôi. Đứa con trai có nửa máu Ma-cà-rồng, là phụ tá của tôi.
-Ông bảo lãnh cho nói?
-Tôi bảo lãnh.
-Vậy thì Darren Shan được trạm nhận diện. Nhưng... nhưng... cái này...
Mũi giáo chỉ thẳng mặt Harkat:
-...nó không phải là Ma-cà-rồng. Có chuyện gì mà nó tới hội đồng?
-Tên hắn là Harkat Mulds, là một người Tí-hon. Hắn...
-Người Tí hon!
Tên lính gác nghẹn thở, mũi giáo hạ thấp xuống. Hắn thô lỗ lom lom quan sát mặt Harkat. (Harkat đã lột mũ trùm đầu ngay sau khi vào hầm, để nhìn cho rõ). Gã lính gác bình phẩm:
-Xấu khủng khϊếp luôn! Tưởng tụi Tí-hon không biết nói.
Nếu không có mũi giáo nhọn hoắt, tôi đã chi hắn mấy câu vì lối an nói hàm hồ đó. Nhưng ông Crepsley vẫn nhỏ nhẹ:
-Ai cũng tưởng vậy, nhưng họ có thể nói được đấy. Hay ít ra tay này nói được. Hắn có một thống điệp phải đích thân gửi các Ông Hoàng.
-Thoog điệp? Của ai?
-Desmond Tí-nị.
Gã lính gác tái mặt, đứng nghiêm nói:
-Tí-hon tên Harkat Mulds được nhận diện. Cửa các lâu đài rộng mở cho tất cả. Tạm biệt.
Hắn đứng sang một bên, nhường lối. Ngay khi cánh cửa khép lại phía sau, cuộc hành trình lên Núi Ma-cà-rồng của chúng tôi đã đến giai đoạn cuối.