Quyển 2 - Chương 59: Đất khách quê người

Đến thượng hải, họ có nửa ngày để chuyển tàu sang Pháp. Ở các cửa khẩu,

người ta kiểm tra giấy tờ rất nghiêm ngặt, nhưng dường như hắn đã liệu

trước được điều này nên chẳng biết bằng cách nào đã kiếm được giấy thông quan. Lúc đợi tàu, Nhan Khai Thần phát hiện mấy tay do thám mắt la mày

lém lẫn trong đám đông, bèn vô thức cúi đầu xuống, cố gắng không để họ

nhìn thấy. Trong khi đó, ‘đồng bọn’ của nàng vẫn say sưa bàn chuyện đầu

tư kinh doanh với một người đàn ông khác.

Lúc sắp lên tàu, hắn

chủ động khoác tay nàng, điềm nhiên đi qua gã do thám đang đứng canh ở

cổng vào. Mãi đến khi an toàn đi lên tàu rồi, hắn mới buông tay nàng ra, từ đó về saukhông hề chạm vào người nàng nữa. Trong suốt hành trình

dài đằng đẵng, hầu hết thời gian Nhan Khai Thần đều ở lỳ trong khoan vì

vết thương ở chân vẫn chưa lành hẳn. Càng nhìn thấy hắn, mối hận thù sâu thẳm trong lòng lại càng trỗi dậy mạnh mẽ, chắc hắn cũng biết, tuy

không ngẩng đầu nhìn nàng nhưng hắn vẫn ngửi thấy mùi của nước mắt.

“Tôi biết cô hận tôi, thực ra tôi cũng không muốn nhìn thấy cô, từ khi cứu

cô đến giờ, tôi luôn cân nhắc mình có nên rời bỏ cô không,nhưng không

được. Tôi không thể làm được.” Giọng hắn nhẹ tênh, trong khi bàn tay thì vẫn luôn nắm chặt như thể đang giấu một bí mật to lớn. Mãi hồi lâu sau, hắn mới thở dài, nhìn về phía cánh cửa cabin đang đóng chặt, giọng nói

bổng trở nên trầm ấm và mềm mỏng đến không ngờ. “Rốt cuộc tôivẫn là

người chứ không phải thánh thần. Cứ ngỡ có thể dễ dàng vứt bỏ mọi thứ,

giả như mình không có tim. Tôi đã gϊếŧ vô số người, phần lớn những lúc

ấy tôi đều cảm thấy mình không có trái tim, nhưng… con người luôn có

huyệt tử của mình. Cô chính là huyệt tử của tôi… cô không thể xuống tay

gϊếŧ tôi, cũng như tôi không có cách nào thuyết phục mình bỏ rơi cô. Nếu tôi muốn cô chết thì cô đã chết cả ngàn lần, vạn lần rồi!” HẮn cứ lẩm

bẩm một mình nàng không hề đáp lại nữa câu.

Hắn lại nói tiếp: “Nếu cô muốn gϊếŧ tôi thì trước hết phải có sức khỏe mới được. Tới Pháp, cô sẽ được an toàn.”

“Tôi không muốn đi cùng anh! Đi đâu cũng được, chỉ cần không đi cùng anh.”

“Chẳng hề gì, nếu bây giờ cô muốn bơi về, nhất định tôi cũng không cản.” Rồi

hắn đứng dậy, quay lưng về phía nàng, lấy lai giọng điệu lạnh lùng và

châm biếm thường thấy. “Thật đấy! Tôi tuyệt đối không ép buộc cô. Nếu cô cam tâm tình nguyện chết dưới mũi súng của Khang Thiếu Đình thì tôi nên thành toàn cho cô.”

“Tôi muốn gϊếŧ chết anh! Tôi rơi vào hoàn

cảnh ngày hôm nay là do anh ban cho. Tôi nhất định phải gϊếŧ… “Nàng vừa

nói vừa tự đánh vào người mình, không cẩn thận chạm vào vết thương ở

chân, cơn đau thấu tim khiến nàng nghẹn lời. Trong thoáng chốc, nước mắt ứa ra làmnhòe tầm nhìn, nàng không nhìn rõ người đứng trước mặt nữa.

Mấy năm nay, nàng chưa từng nhìn rõ hắn.

Tiết Vân Tần nghe tiếng

khóc thút thít, liền quay nghiêng mặt sang: “Cô muốn gϊếŧ tôi cũng tốt.

Thù hận sẽ khiến cô có thêm nghị lực sống, cũng giống như ngày trước

trong trại huấn luyện, nó đã giúp cô kiên cường sống tiếp. Nhưng cô đừng quên, tôi là chỉ huy của cô, nên muốn gϊếŧ tôi, ít nhất cô phải mai

chóng khỏe lại.” Hắn hiểu rõ điểm yếu của nàng, hiểu rõ với đàn bà, lý

trí mãi mãi không bao giờ thắng được tình cảm. Đó cũng chính là nỗi bi

ai của nàng.

Hắn đi ra khỏi cabin, gió biển lạnh buốt thốc tới

khiến hắn rụt cổ vào trong áo, bất giác rùng mình nói: “Chẳng còn cách

nào khác. Em có chán ghét tôi đến đâu thì ít nhất trong thời gian ở đất

khách quê người, chúng ta sẽ bị trói buộc vào nhau. Từ bây giờ, em hãy

cầu nguyện đi. Cầu cho một ngày nào đó kẻ thù của em sẽ gặp phải báo

ứng.”

TQ mỗi lúc một xa, lòng hắn cũng mỗi lúc một phấp phỏng bất an. Hồ như trong bóng tối phía sau có một thế lực đang tìm cách kéo hắn lại. Đột nhiên có một quầng sáng màu đỏ rụt qua trước mắt, không biết

là pháo hoa trong tay bọn trẻ con trong tiết nguyên tiêu hay là lửa pháo trong lúc đất nước sa vào tay giặc. Bây giờ, đối với hắn, tất cả đều

trở thành làn khói trắng mỏng tan biến trước mắt. Không thể nào quay đầu lại nữa.

Chỉ có điều, không còn tổ quốc, nhà của họ sẽ ở nơi nào??

Người ta nói thượng hải là Paris của phương đông, nhưng khi đến Paris thì

không hề đẹp đẽ như trong tưởng tượng. Vấn đề đầu tiên họ gặp phải là sự bất đồng ngôn ngữ.

Trước đây trong trại huấn luyện, Nhan Khai

Thần chỉ được học tiếng Anh và tiếng Nhật, trong khi Tiết Vân Tần biết

thêm chút tiếng Đức. Ngoại ngữ mà hai người được học hoàn toàn không có

đất dụng võ ở nơi đây. Huống hồ, người Pháp luôn tự hào tiếng Pháp là

thứ tiếng trang nhã nhất thế giới, dù một vài người hiểu được tiếng Anh

nhưng họ vẫn giả vờ không biết và quay mặt đi. Không những vậy, họ còn

khinh bỉ những người TQ biết tiếng Anh. Suốt dọc đường đi hỏi địa chỉ,

rất nhiều người Pháp tỏ vẻ cau có khó chịu.

Đến chiều, họ vẫn

chưa tìm được chổ trú chân. Toàn bộ gia sản của hai người đổi thành tiền franc chỉ nắm một tay là hết. SInh hoạt phí ở đây đắt hơn ở thượng hải

nhiều lần, nếu muốn ở lâu thì buộc phải tìm nơi nào rẽ một chút. Đang

lúc lơ ngơ chưa biết đi đâu thì họ nhìn thấy một cô gái trẻ đang ngồi

rửa bát trong ngõ, tay dính đầy bọt xà phòng. Nghẹ họ nói chuyện với

nhau, cô gái liền bảo mình là lưu học sinh TQ. Biết họ muốn tìm nơi ở,

cô gái liền nhiệt tình rút ra một tờ báo, bên trên viết địa chỉ bằng

tiếng Pháp. Cô bảo họ nếu nhìn thấy một thanh niên bán báo, trên lưng

còn rất nhiều báo chưa bán thì hãy cho anh một franc, anh ta sẽ vui lòng dẫn hai người đến tìm nhà. Theo chỉ dẫn của cô gái lưu học sinh, quả

nhiên Nhan Khai Thần và Tiết Vân Tần thuận lợi tìm được nơi ở. Cậu thanh niên bán báo hào hiệp trả ơn họ bằng cách nhiệt tình mặc cả với bà chủ

nhà nóng tính. Cuối cùng, họ được ở trong căn nhà rẻ nhất khu trọn.

Quả không hổ danh là căn phong rẻ nhất, nó ở dưới tầng hầm, nhỏ đến nỗi chỉ kê được một chiếc giường, không những thế, thỉnh thoảng có một con

chuột gớm ghiếc lại chui ra khỏi tấm ga giường mốc meo. Nhưng chung quy

thì cũng có nhà mà ở.

Buổi tối, sau khi dọn dẹp phòng sạch sẽ,

hai người ngồi trên tấm phản duy nhất, đồng thời cũng chính là giường

ngủ, tính toán cho những ngày sắp tới. Miệng ăn núi lở, không thể chỉ

dựa vào số tiền mang theo được. Nhan Khai Thần thấy hai người buộc phải

buộc tìm việc làm. Nhưng ngôn ngữ là cả một vấn đề nan giải. Cô và Tiết

Vân Tần không tìm được cách giải quyết, đến tận khi màng đêm buông xuống vẫn suy nghĩ miên man mà chưa đưa ra bất kỳ quyết định nào. Tiết Vân

Tần nửa đùa nữa thật, bảo: “Trên đường, tôi thấy có gánh xiếc, hay tôi

thử biểu diễn ném phi tiêu nhỉ? Kỹ thuật bắn súng của tôi khá tốt mà!”

“Sao anh không tìm luôn bọn xã hội đen mà đầu quân?Với thân thủ của anh

thì chắc chắn đã đủ tiêu chuẩn bảo vệ đại ca của họ.” Nhan Khai Thần đốp lại, giọng vừa châm chọc vừa hàm chứa sự bất lực. Trước đây, họ đều là

những đặc công xuất sắc nhất, nhưng rời khỏi vị trí ấy thì họ thậm chí

còn không có bản lĩnh nuôi sống gia đình bằng dân thường.

Tiết

Vân Tần lắc đầu, trầm tư nói: “Tôi không còn hứng thú làm những việc đó

nữa.” dứt lời, hắn lấy tấm thảm rách nát không còn hình dạng gì trên

giường trải xuống đất, khép áo xuống nằm xuống ngủ. Nhan Khai Thần cảm

thấy hắn không muốn nhắc lại bất kỳ chuyện gì liên quan đến quá khứ. Một khi quyền lực hô phong hoán vũ sớm nở tối tàn thì bất cứ ai cũng không

thể lập tức thích ứng nổi. Suy cho cùng thì giờ họ giống hệt nhau, đều

trắng tay. Có lẽ điều khiến nàng khó lòng tưởng tượng hơn là một ngày

hai kẻ thù mang nợ máu trên vai lại cùng bước trên một con đường. Nhưng

nếu không thử chấp nhận một cuộc sống mới thì chỉ còn cách buồn bã nhìn

phân nửa cuộc đời bất đắc chí của mình dần dần trôi đến điểm cuối. Đặc

biệt khi bản thân không thể xuống tay gϊếŧ chết kẻ thù thì cách duy nhất để báo thù chính là kiên cường sống tốt hơn đối phương.

Quá khứ đúng là chủ đề cấm kị mà họ không nên nhắc lại chút nào.

Không lâu sau, Nhan Khai Thần tìm được công việc đầu tiên ở Paris hoa lệ, đó

là giúp bà chủ nhà chăm sóc lũ trẻ và làm việc nhà. Đôi lúc, giúp bà chủ nhà mang quần áo cũ ra vá, đương nhiên công việc này không được trả

công. Một tháng nàng được trả tám mươi cent, tuy biết mức tiền này là

qua rẻ mạt nhưng có việc còn hơn không. CÒn Tiết Vân Tần thì hơn một

tuần sau mới tìm được việc. Một nhà hàng TQ thiếu chân lễ tân, hắn phải

đưa ra mức lương rất rẻ mới thuyết phục được ông chủ nhận vào làm, nếu

không chẳng ai đồng ý thuê một nhân viên không biết Pháp. Tiền công của

hắn tính theo ngày, một ngày mười cent, nếu làm đủ tháng sẽ được trả ba

franc. Trước đây, trong túi Tiết Vân Tần chưa bao giờ thiếu tiền, giờ

từng đồng hắn đều phải đếm rất cẩn thân. Về đến nhà, niềm vui lớn nhất

của Tiết Vân Tần không phải là vật người xuống giường ngủ vùi mà là bày

mười cent ra giường ngay trước mặt Nhan Khai Thần, đếm từng đồng một,

trông đắc ý như vừa phát tài. Trong khi đó, Nhan Khai Thần một tháng mới được lĩnh lương một lần, nên đành chịu đựng cái thái độ ‘giễu vỏ dương

oai’ của hắn, tiếp tục cắm cúi may vá những bộ quần áo cũ đứt chỉ vì chủ nhà không ngừng tăng cân. Có điều nàng cư xử rất có nghĩa khí. Hằn ngày hắn đi làm về, nàng chủ động nấu hai bát mỳ Ý, lại cáng đáng hết tất cả các việc vặt trong nhà. Đôi lúc sợ hắn ăn mãi ngán quá, nàng còn thêm

ít hành tây và rau vào mì. Chỉ vào ngày được phát lương, Nhan Khai Thần

mới dám mua một ít thịt lợn đã sắp bốc mùi, đập thêm quả trứng, đó là

bữa ăn thịnh soạn nhất trong cả tháng của cả hai người. Hằng ngày, lúc

đưa tiền cho Nhan Khai Thần, Tiết Vân Tần đều hứng khởi kể cho nàng nghe những chuyện thú vị ở nhà hàng, thỉnh thoảng còn mang cả đồ ăn khách

chưa động đũa về nữa, hắn bảo nàng đừng quá tiết kiệm. Nhưng lâu sau, độ nhiệt thành dần nguội lạnh, thậm chí mỗi lần về nhà, nhìn hắn như sắp

kiệt sức đến nơi, cũng chẳng buồn nói chuyện gì với nàng.

Mấy

lần, Nhan Khai Thần phát hiện áo quần của hắn dính rất nhiều vết bẩn,

nàng không hỏi, hắn cũng không bao giờ nhắc đến. Mãi đến một đêm, bổng

dưng tỉnh giấc, nàng mới phát hiện hắn đi ra khỏi phòng từ lúc nào, đang đấm bùm bụp vào thân cây già, vẻ như muốn trút giận. Hai mu bàn tay

loang lỗ máu nhưng hắn không ngừng lại, vẫn tiếp tục đấm. Ban đầu, hắn

giải thích là lâu ngày không vận động nên mới luyện tập một lát. Nhưng

sau khi nàng gặn hỏi hắn, hắn mới nói mấy ngày nay liên tục xuất hiện

bọn lưu manh đến nhà hàng gây rối, dù ông chủ đã trả đủ tiền bảo kê

nhưng những nhân viên phục vụ vẫn bị bọn chúng châm chọc. Khi nghe thấy

bọn lưu manh da trắng chửi họ là con lơn da vàng hay dân Đông Á bệnh

hoạn thì nỗi hận giống như quả bóng bị bơm quá cỡ, chỉ trực bùng nổ,

nhưng hắn vẫn phải cố nén nhịn. Chỉ khi về nhà hắn mới có thể thoải mái

trút giận.Những ngày sau đó, hắn vẫn phải tiếp tục chịu đựng thái độ

phỉ báng khinh miệt của bọn Pháp phân biệt chủng tộc dành cho mình và

thậm chí dành cho cả dân tộc trung hoa.

Quả nhiên bất kể ở nơi

đâu cũng có kẻ mạnh ăn hϊếp kẻ yếu, nước mạnh kinh nước yếu. Nhan Khai

Thần nói: “Sao anh lại chịu đựng?” Hắn đáp: “Vì chúng ta đúng là những

kẻ ăn nhờ ở đậu!” Mỗi khi sắp không thể khống chế nỗi, hắn lại muốn rút

khẩu súng giấu ở thắt lưng ra ‘nói chuyện’ với bọn chúng, nhưng hắn vẫn

kìm nén được. Cuối cùng, hắn quẳng khẩu súng chưa bao giờ rời khỏi người xuống sông Seine, hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ. Đã không thể thay

đổi được sự vật xung quanh thì ắt phải tự thay đổi bản thân mình.Càng

ngày họ càng quen dần! Càng ngày cảm xúc của họ càng trơ lì!

Nữa

năm sau, họ không thể tiếp tục duy trì cuộc sống đó nữa. Toàn bộ số tiền tiết kiệm cất trong phòng đã bị ăn cắp khi Nhan Khai Thần ra ngoài mua

thịt hun khói. Nàng điên cuồng tìm kiếm khắp nhà, thậm chí tới tất cả

những con phố mà ngày hôm đó mình đã đi qua, nhưng vẫn không thấy tăm

tích, Mặt dù Tiết Vân Tần luôn miệng an ủi,nhưng nàng vẫn luôn tự trách

rất lâu. Đó không chỉ là số tiền mồ hôi nước mắt mà hai người vất vả lắm mới kiếm được mà là sự đảm bảo quan trọng để duy trì cuộc sống. Chủ nhà biết họ mất tiền, lập tức yêu cầu hai người phải trả liền hai tháng

tiền thuê phòng, nếu không lập tức cuốn gói cút thẳng. Đương nhiên, Nhan Khai Thần chẳng còn lại xu nào mà nộp. Đúng lúc ấy, Tiết Vân Tần lại bỏ việc, hai người không có nguồn thu nhập, đành thu xếp hành lý ra đi.

Nhan Khai Thần và Tiết Vân Tần đi lang thang khắp nơi một cách vô định, mỗi

người ôm một nỗi niềm riêng. Có lúc mãi suy nghĩ, suýt nữa Nhan Khai

Thần bị xe ngựa trên đường đâm phải. Người đánh xe giảm tốc độ định quát vài câu, nhưng vị khách ngồi bên trong thò chiếc gậy ba toong màu kim

loại ra gõ vào khung xe thúc giục nên ông ta đành phải giật cương cho

ngựa đi tiếp, nhờ vậy mà Nhan Khai Thần mới tránh được phiền phức.

Mệt rồi, họ lại tìm một chỗ khuất gió bên bờ sông Seine, trải chiếu ngồi

xuống đất. Độ ẩm ban đêm cao, Nhan Khai Thần lôi chiếc chăn lông đáng

tiền nhất trong túi ra choàng quanh hai người cho đỡ lạnh, lặng lẽ đợi

ngày mai đến. Nàng liếc nhìn người đàn ông đang ngủ gà ngủ gật ở bên

cạnh, các đường nét trên khuôn mặt rất rõ ràng, lúc này trông hắn vô

cùng hiền hòa. Nhớ lại lúc còn quyền lực, hắn oai phong làm sao, thế mà

bây giờ lại thảm hại nhường này. Khẽ thở dài rồi nhắm mắt lại, đầu vô

thức ngả vào vai hắn, chìm vào giấc ngủ mê man.

Nhan Khai Thần

không biết trời sáng từ bao giờ, chỉ loáng thoáng nghe thấy tiếng kim

loại rơi xuống đất giòn tan, lúc ấy nàng mới từ từ mở mắt. Nàng ngạc

nhiên phát hiện trước mắt là mấy đồng xu lẻ. Một thiếu phụ mặc váy dài,

môi tô son đỏ chót đi ngang qua, nhìn hai người với vẻ mặt đầy thương

tâm, đồng thời rút trong túi áo một đồng franc ném vào trước mặt họ. Vừa ném miệng bà vừa lẩm bẩm với vẻ tội nghiệp: “Đúng là một cặp đáng

thương! Xin thượng đế phù hộ cho họ!”

Nhan Khai Thần nghe vậy

liền lịch sự gật đầu cảm ơn, sau đó đính chính: “Xin lỗi phu nhân, chúng tôi không phải ăn mày và anh ấy cũng không phải người yêu của tôi.”

“Thế cô và cậu ta là gì của nhau?”

“Kẻ thù!”

“Kẻ thù? Cô không đùa đấy chứ?”

“Đúng là vậy đấy.”

Bị đánh thức khỏi giấc điệp, Tiết Vân Tần ngẩng mặt lên, cười tươi nhưng

khẳng định lời Nhan Khai Thần không phải nói đùa. Sắc mặt thiếu phụ lập

tức thay đổi, thiện ý thương cảm thoắt nhiên biến mất. Tiết Vân Tần thò

tay nhặt đồng franc rồi cẩn thận nắm chặt trong tay. Sau đó, hắn choàng

vai ôm Nhan Khai Thần, mơ màng nói: “Chắc trên thế giới không có cặp kẻ

thù nào lại thân mật như chúng ta nhỉ? Thân mật đến mức khiến chúng tôi

suýt quên hiện thực.”

“Anh nhầm rồi! Dù gần hơn nữa, dù nằm chung một giường thì cùng lắm chúng ta cũng chỉ là một cặp vô liêm sỉ, sắp

không xứng đáng với tên gọi ‘kẻ thù’ rồi”. Dứt lời, nàng mỉm cười và

đứng dậy. Sự thù hận đã bị cuộc sống khó khăn bào mòn và ngày càng trở

nên mờ nhạt, cơ hồ chỉ sau một giấc ngủ sẽ tan biến. CÓ điều, ngày ấy

vẫn chưa đến.

“Cô đợi nhé! Tôi sẽ biến một franc này thành vé tàu!”

Tiết Vân Tần gấp xong chăn, búng đồng tiền trên tay lên cao, nói. Nhìn hắn

đắc ý như thể vừa suy nghĩ ra được mưu kế phản kích tuyệt hảo, Nhan Khai Thần chỉ biết xoa bờ vai mởi nhừ, đợi xem rốt cuộc hắn sẽ thi triển

phép thuật gì.

Tiết Vân Tần quả thực đã diễn một màn kịch rất đẹp mắt. Hắn đến sòng bạc, từ một franc kiếm được mười franc, lại dùng từ

mười franc kiếm được hai mươi franc, cuối cùng càng đánh càng thắng lớn, đến nỗi chủ sòng bài lấy cớ hắn chơi gian để đuổi hắn đi.Tiết Vân Tần

thuận lợi chạy thoát khỏi sòng bạc, mang số tiền lẻ vừa thắng được mua

hai vé tàu đi Ba Lan. Trên đường, Nhan Khai Thần hỏi ắn không dưới mười

lần rằng tại sao phải rời Paris để đến một đất nước xa lạ như thế. Hắn

trả lời có một vị khách Ba Lan thường đến nhà hàng hắn dùng bữa, người

ấy có thiện cảm với hắn nên đã nhiệt tình giới thiệu một số công việc ở

đó cho hắn. Theo mô tả của đối phương thì dường như Ba Lan là nơi thích

hợp để họ sống hơn.

Mãi đến khi tới Ba Lan, Nhan Khai Thần mới

biết lịch sử của quốc gia này cũng lắm chông gai. Giống như Triều Tiên,

Ba Lan từng nhiều lần bị giặc ngoại bang xâm chiếm, những lúc như vậy,

họ chỉ có thể trông chờ vào sự bảo vệ của những nước lớn. Chính bởi vậy, người Ba Lan có thiện cảm đặc biệt và khó hiểu với những vị khách nói

tiếng Pháp. Ở đây, không cần biết tiếng Ba Lan, chỉ cần nói được ít

tiếng Pháo là giải quyết được vấn đề giao tiếp. So với Paris đắt đỏ thì

cuộc sống ở Ba Lan dễ chịu hơn nhiều, hàng hóa ở đây lại ngon bổ rẻ.

Dường như người dân không mấy hứng thú với những thứ hào nhoáng mà không thiết thực với cuộc sống hằng ngày. Có lẽ vì đa phần dân chúng đều sùng đạo Thiên Chúa nên phục trang của họ khá là đơn giản, tính tình lại hòa đồng, vui vẻ. Sau khi tìm được nơi ở, vị thực khách người Ba Lan nọ mới tiết lộ với Tiết Vân Tần rằng anh ta là người Do Thái. Sỡ dĩ anh ta

nhiệt tình giúp đỡ hắn là vì đồng cảm với hoàn cảnh dân tị nạn không có

tổ quốc, phải tha phương cầu thực. Có điều, nếu muốn hòa nhập với cuộc

sống ở Ba Lan thì phải khiêm tốn, lịch sự, như vậy sẽ được mọi người tôn trọng. Bởi vậy, mỗi lần gặp hàng xóm, Tiết Vân Tần luôn chủ động chào

hỏi. Những người hàng xóm rất quý thái độ nhã nhặn, lịch sự của hắn. Dần dần mọi người nói chuyện niềm nở, đôi lúc hai người còn được mời sang

nhà hàng xóm dùng bữa cơm thuần hương vị Ba Lan.

Có lần, vào một

ngày thứ sau, Nhan Khai Thần sơ suất quên mất tập tục của Thiên Chúa

giáo, đặc biệt chuẩn bị một bữa cơm mang phong vị TQ mời hàng xóm để đáp lễ, trong đó có không ít món làm từ thịt lợn, may mà người vợ hàng xóm

kịp thời nhắc nhở, nàng mới biết hôm ấy các tín đồ đạo Thiên Chúa giáo

không được phép ăn thịt lợn. Ba Lan là một đất nước đa sắc tộc nên nàng

phải lưu ý nhiều hơn đến lễ tiết và điều cấm kị trong cuộc sống thường

ngày. Có điều, hàng xóm xung quanh đều không ngớt lời khen tay nghề nấu

ăn của nàng và các món ăn được chế biến đa dạng của TQ. Họ còn nói nàng

có thể mở quán ăn kiếm sống. Khi ấy, vẫn chưa nhiều người TQ đến Ba Lan

sinh sống nên đó là một gợi ý không tệ.

Sau đó, nhờ sự giúp đỡ

của người hàng xóm Do Thái tên là Katz, Tiết Vân Tần đã tìm được một

quán ăn ở vị trí khá đẹp, tuy nhiên diện tịch hơi nhỏ, chỉ kê đủ hai bàn ăn. Nhan Khai Thần cùng số tiền còn lại trang trí cho không gian nhỏ

của quán ăn theo phong cách TQ, tất cả những thực cách vào dùng cơm đều

được tặng một quán nhỏ trước khi ra về, khi thì bùa như ý, khi thì là

chiếc túi thơm nhỏ xinh, lúc lại là chiếc khăn tay thêu các hoạt tiết

đậm nét Trung Hoa. Khách hàng rất thích những vật phẩm ấy, một vài người còn đặc biệt đến quán ăn chỉ vì những món quà xinh xắn. Nhưng có một số vấn đề khiến nàng vô cùng đau đầu, đó là rất nhiều gia vị không thể mua ở Ba lan. Vì việc này mà nàng tốn rất nhiều thời gian để tìm công thức

pha chế gia vị mình cần dùng từ nhiều loại gia vị khác, cuối cùng cũng

thành công với việc muối dưa cải và đậu hũ làm món khai vị.

Khẩu

vị người Ba Lan khá tạp, họ vô cùng thích thú những món ăn mới lạ nên

quán ăn CHINSKI RESTAURACJA (Quán ăn TQ) của Nhan Khai Thần càng ngày

càng có nhiều người biết đến. Hai chiếc bàn không đủ để tiếp đón những

dòng khách lũ lượt vào nên họ chuyển đến một quán ăn rộng hơn, đồng thời cũng chuyển nơi ở từ căn gác nhỏ sang một ngôi nhà có khu vườn xinh

xắn.

Ngoại trừ những lúc phụ giúp trong quán, Tiết Vân Tần còn

rất quan tâm đến trị trường cổ phiếu. Nhưng hiện tại, cổ phiếu đang ở

đáy vực, vì giá cổ phiếu liên tục tuột dốc nên ít người chịu mạo hiểm.

Tiết Vân Tần liền mua một ít cổ phiếu mang tính thăm dò, nào ngờ ông

trời đặc biệt ưu ái hắn nên chẳng bao lâu sau, cổ phiếu đang chạm đáy

bổng tăng vùn vụt. Nhờ vậy, hắn kiếm được món tiền lớn từ trên trời rơi

xuống, lợi nhuận kiếm được gấp mấy lần từ quán ăn. Đây cũng là một

chuyển biến đáng kể sau khi rời khỏi tổ quốc. Sau một năm rưỡi, lần đầu

tiên họ được hưởng cuộc sống sung túc. Thực ra, thành công của Tiết Vân

Tần cũng không hoàn toàn dựa vào vận may, bởi đặc công vốn dĩ là những

người giỏi thu thập tin tức, không chỉ ở lĩnh vực quân sự mà cả những

biến động về kinh tế thời sự quốc tế, họ cũng đặc biệt lưu ý.

Vài năm sau, người TQ di cư sang Ba Lan ngày càng nhiều, không hẹn mà cùng

mở quán ăn hoặc tiệm giặt là. Nhiều người TQ đến Ba Lan đều là con nhà

danh gia vọng tộc ở trong nước nên nhu cầu ăn uống cũng tinh tế hơn, các món ăn và phương pháp chế biến đương nhiên cũng phong phú hơn Nhan Khai Thần nhiều. Suy đi tính lại, Nhan Khai Thần thấy so với việc hạ giá để

cạnh tranh thì chi bằng rẽ sang hướng khác. Nàng bàn bạc với Tiết Vân

Tần và quyết định chuyển nhượng quán ăn cho một thương nhân đến từ Giang Tô. Trong lúc nói chuyện, thương nhân Giang Tô nọ không thể nhắc đến

tình hình trong nước, cũng không phấn khích khi gặp đồng bào ở nơi đất

khách quê người. Đa phần thời gian họ chỉ nói đến môi trường sống ở Ba

Lan. Cuối cùng, hai bên chỉ bàn chuyện mua bán rất nghiêm túc và chẳng

ai đề cập đến những vấn đề không liên quan.

Nhan Khai Thần vốn dĩ rất muốn hỏi, Tiết Vân Tần dường như cũng vậy. Mấy năm nay, hắn luôn

chân luôn tay, chẳng còn thời gian quan tâm đến những điều đó, dù đôi

khi uống rượu say hắn vẫn huyên thuyên vài câu linh tinh với Katz, nhưng bản tính người Do Thái luôn lạc quan và tích cực nên hắn cũng học được

nhiều điều. Có lẽ Tiết Vân Tầnđã thích ứng với cuộc sống dung dị ở

đây. MẶc dù bề ngoài họ là vợ chồng, đôi lúc thỏa mãn nhu cầu của nhau,

nhưng đa số thời gian còn lại vẫn giữ lạnh lùng giữ khoảng cách rõ rệt.

Chỉ khi có chuyện cần thảo luận, họ mới thân thiết ngồi gần nhau, nói

xong rồi ai lại làm việc ấy, như haikẻ xa lạ, rồi lúc ra khỏi nhà lại

giả vờ tình tứ khoác tay nhau. Dù vậy, nỗi oán hận trong sâu thẳm trái

tim vẫn chưa có phút giây nào biến mất. Chỉ là cả hai đã quen diễn kịch

mà thôi. Và họ cũng chưa bao giờ có ý định phá vỡ quan hệ hợp tác hôn

nhân này. Bởi nói cho cùng, ở nơi này, họ chỉ quen biết mỗi đối phương

và chẳn thể dựa dẫm vào ai khác.

Năm ngoái, quân Đức tấn công và

chiếm đóng Tiệp Khắc. Đối với một đất nước đang đứng đầu sóng ngọn gió

như Ba Lan thì đây đúng là một hồi chuông báo động. Nhận được lời cam

kết của Pháp và các nước phương Tây, giới quý tộc Ba Lan vẫn tin rằng

thời cuộc sẽ chuyển biến theo chiều hướng tốt, nhưng tầng lớp công nông ở đáy xã hội của thành phố Lodz(1) thì hoàn toàn không tin vào điều đó,

thế nên bạo động xảy ra liên miên. Tiết Vân Tần nói thẳng rằng tình hình Ba Lan bây giờ rất nguy cấp, không thể ở lâu được nữa. Hắn khuyên Nhan

Khai Thần cùng chuyển đi nơi khác,nhưng nàng cố chấp lắc đầu: “Nếu quả

thực xảy ra biến động lớn thì đi đâu mà chẳng vậy! Nếu cứ phải trốn hết

chỗ này sang chỗ khác thì tôi thà ở lại đây còn hơn! Anh xem anh Katz

đấy, người ta có định đi đâu.” Ở lâu một nơi khiến người ta nảy sinh

tình cảm, lưu luyến không muốn xa rời, huống hồ nàng đã quá chán ngán

cuộc sống liên tục chạy trốn rồi.

1.Một trong những thành phố lớn nằm ở miền Trung Ba Lan, trong khu vực Wzniesieniach Lodzkick gần sông

Ner, cách Warsaw khoảng 135 cây số về phía nam.

Tiết Vân Tần

không phản bác, hắn chỉ cầm tẩu thuốc đưa lên miệng hút rồi phẩy tay

nói: “Giờ mà không đi, sau này muốn đi cũng không còn cơ hội đâu!”

“Thế anh bảo chúng ta có thể trốn đi đâu? TQ, Pháp, Ba Lan, lẽ nào chạy trốn khắp Tây Âu sao?” Nhan Khai Thần đã quyết định ở lại, nàng thực sự

không còn sức lực để bắt đầu lại từ đầu ở một nước xa lạ nữa. Bây giờ,

nàng đã sắp ba mươi rồi, bất luận sức khỏe hay tâm lý đều không thể bằng trước đây. “Anh không thấy mệt sao? Nhìn chúng ta mà xem! Suốt nữa đời

người đã sống vì người khác, khó khăn lắm mới tự lực tự cường bắt đầu

lại cuộc sống và được hưởng sự thoải mái. Thế này không tốt sao?”

Tiết Vân Tần thở dài, tiện ttay bỏ thêm củi vào lò sưởi, nói: “Tôi thì thế

nào cũng được. Chỉ hi vọng, cô tránh được chiến tranh.”

“Nơi nào

có người, nơi đó có tranh chấp. Làm sao mà tránh được! Có lẽ chúng ta

nên tin vào đội quân của Lodz, họ đều là những thanh niên nhiệt huyết và trẻ trung, chắc chắn họ sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì tổ quốc

của mình.”

“CÔ cảm thấy như vậy sao?” Hắn hỏi rồi cười nhạt.

Không phải hắn nghi ngờ năng lực quân đội của Lodz mà là không thể tin

vào điều đó. Hắn từng đi học khóa huấn luyện tại Đức nên biết rõ không

một quốc gia nào có thể ngăn được bước tiến của quân đội Đức. Lát sau,

hắn lại tự trả lời với vẻ cảm khoái: “Đúng vậy! Mỗi người đều phải chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì đất nước của mình.” Trong tích tắc, hắn

nghĩ đến bản thân và không thể cười nỗi nữa. Tài năng mà hắn luôn cảm

thấy tự hào từ đầu chí cuối chỉ phục vụ cho những chính khách mưu đồ đen tối, chứ chưa bao giờ dùng để đối phó với giặc ngoại xâm. Đó là sự châm biếm lớn nhất và cũng là điều tiếc nuối suốt đời hắn.

Nhan Khai

Thần cứ ngỡ Tiết Vân Tần đã học được cách buông xuôi tất cả, nhưng sau

khi hắn đi ra ngoài,nàng mới phát hiện bí mật mà hắn cất giữ mấy năm

nay. Nếu không vì giúp Tiết Vân Tần tìm một tài liệu thì nàng không bao

giờ đặt chân vào phòng làm việc của hắn. Nàng nhớ mỗi năm hắn đều có mấy ngày tự nhốt mình trong phòng, từ chối bất cứ ai đến làm phiền. Mãi đến hôm nay, nàng mối được điềm nhiên tiến vào lãnh địa của hắn nên không

khỏi tò mò tìm kiếm từng ngóc ngách. Mở hộc gôc phía dưới giá sách, nàng phát hiện bên trong đựng đầy báo cũ, những mẩu tin tức được cắt cẩn

thận, mẩu nào cũng đề cập đến tình hình chiến sự trong nước, dòng chữ TQ sa vào tay giặc in trên tờ giấy mỏng manh đã ố vàng luôn được tô đậm.

Một tờ giấy có thể tải được sức mạnh vô song của cả chiều dài lịch sử

mấy ngàn năm nhưng lại không thể chứa đựng hiện trạng một đất nước đang

trên bờ vực thẳm, sự chênh lệch màu sắc một cách đột ngột giống như lời

tố cáo mạnh mẽ vụt bắn ra từ trong xương tủy, phẫn nộ trừng mắt nhìn

nàng, kẻ trốn chạy trước cảnh đất nước lâm nguy để sống yên ổn nơi xứ

người.

Cuối cùng, sự áy náy vô cớ khiến nàng quỳ sụp xuống nền

nhà như đang nhận tội, từng mảnh rơi xuống đất, nàng thấy rõ từng chữ:

Bắc Bình rơi vào tay giặc, Thiên Tân rơi vào tay giặc, Thượng hải rơi

vào tay giặc, Nam kinh rơi vào tay giặc, Khai phong rơi vào tay giặc,

Quảng châu rơi vào tay giặc, Vũ hán rơi vào tay giặc,… từng con chữ bi

thương khiến người ta rơi lệ, từng thành phố bị quân Nhật chà đạp thê

thảm dưới sự phá hủy của những khẩu pháo, dường như tất cả chợt trở nên

tan hoang chỉ trong một đêm. Trên cổng thành đổ nát, lá quốc kỳ tả tơi

với trăm ngàn lỗ đạn bất lực rơi nước mắt, nhìn xuống dưới thành, quân

địch đang gầm thét giơ cao lá cờ trắng với chấm tròn ở giữa, đỏ như màu

máu, giẫm lên xác chết của những người bại trận. Chúng hào hứng khoe

khoang mình đã cướp được những vùng đất nào và hạ được những đội quân

nào. Không còn chiến sĩ gác cuối cùng, khắp nơi chỉ có máu tươi của đồng bào và lá cờ in hình mặt trời như một lời sỉ nhục. Cuối cùng, trong

tiếng cười ngạo nghễ của quân Nhật, nàng đột ngột ngã xuống. Trong lúc

mơ hồ, Nhan Khai Thần như ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc, nó xuyên qua

khoang mũi, nhanh chóng luồn xuống đáy tim và đông kết thành tảng băng

lạnh buốt.

Nàng thở hổn hển, lấy hết sức mới tìm thấy những chiếc vé tàu đi thượng hải nằm lẫn trong mớ lịch sử xâm lược đẫm máu ấy. Từ

năm 1933 đến 1938, mỗi năm đều có một cặp vé, nhưng không một chiếc nào

được sử dụng. Nó được niêm phong trong hộp gỗ cùng với sự trầm luân của

cố hương, giống như chiếc hộp Pandora, hễ mở ra thì vận đen khiến người

ta đau khổ nhất sẽ lập tức giáng xuống. Đêm hôm ấy, nàng gặp một cơn ác

mộng rất dài. Nàng mơ thấy mình đứng trên đỉnh núi cao, nhìn xuống phía

dưới, cánh đồng tuyết trắng dần dần tan chảy, lộ ra một bức tranh được

giấu kín bấy lâu.

Rất nhiều người bị còng tay chân, loạng choạng

ngã xuống trên nền đất lạnh, vừa mới ngẩng đầu đầm đìa máu tươi bị trùm

vải trắng lên thì bị quân Nhật giơ cao ngọn giáo đâm xuyên qua đầu, máu

tứ phía. Một lát sau, lại một vùng tuyết tan chảy, lộ ra đám trẻ mồ côi

kinh hoàng gào khóc, bò lên thân thể cha mẹ đã chết từ bao giờ trong khu ổ chuột nát. Lửa cháy hừng hực bủa vây trời đất, hong khô nước mắt trên mặt những đứa trẻ rồi thiêu cháy chúng thành than. Rồi chỉ trong chớp

mắt, tất cả tuyết trắng trong khe núi đều tan hết, vô số cảnh tượng thảm khốc của đồng bào bị lăng nhục trong khói lửa chiến tranh, tiếng khóc

than, tiếng thét gào thấu trời xanh nhuốm máu đỏ. Cuối cùng, từng bông

tuyết vùi lấp lại tất cả sự thật, một dòng máu như ngọn lửa đỏ thắm bổng trào lên khỏi mặt tuyết, dần dần khuếch tán, thoáng chốc đã nhuộm đỏ cả khe núi. Máu sắp ngấm đến khoảng đất trên đỉnh núi nàng đang đứng…

Quá kinh hoàng, Nhan Khai Thần đột ngột bừng tỉnh khỏi giấc mộng. Nàng

cuống cuồng vén ống quần lên xem có vết máu oan hồn để lại không. Định

thần lại, nàng mới biết đó là một giấc mơ. Những gì nghe thấy, những gì

nhìn thấy trong mơ giống y hệt như thật, hồ như nó đã hóa thành không

khí len lỏi vào tận xương tủy nàng. Cánh cửa sổ bị gió thổi tung, liên

tục phát ra tiếng ‘cót két’, bóng tối đặc quánh ngoài kia khiến nàng run lẩy bẩy, bất giác tưởng tượng ra từn khuôn mặt người chết đang nhảy xổ

ra trước mắt. Nàng vụt bước xuống giường, mặc cho quần áo xộc xệch, lao

thẳng vào phòng Tiết Vân Tần, chui tuột vào chăn của hắn. Nàng nằm sát

vào hắn, nín thở vùi vào ngực hắn. Nhưng bất luận áp sát đến mức nào, cố gắng hướng suy nghĩ đến những lúc vui vẻ cùng hắn đến mức nào thì nàng

vẫn không thể xua tan được cảnh tượng gió tanh mưa máu ban nãy, ngược

lại còn dung túng cho chúng bén rễ trong đầu.

Khi cơn khϊếp đãm

dần dần lắng dịu, bao nhiêu bi thương cố gắng dồn nén bấy lâu bổng trào

lên trong phút chốc. Ngẩng khuôn mặt đẫm nước mắt lên cầu cứu Tiết Vân

Tần, nàng hỏi: “Tiết Vân Tần! Nói cho tôi biết có phải TQ sắp mất rồi

phải không? Chúng ta sắp trở thành con dân của một nước nô ɭệ phải

không? Đúng không? Thế… Vũ Hán… Vũ hán… Sau này tôi không thể trở về đó

nữa ư?”

Tiết Vân Tần nhìn đăm đăm lên trần nhà, không dám cúi đầu vì nếu cúi xuống thì sẽ không bao giờ kiềm chế được dòng lệ nóng hổi

đang chực trào trong khóe mắt. Cuối cùng, hắn chỉ biết bất lực lắt đầu

nói: “Tôi không biết! Thực sự không biết!” Đúng là hắn không biết họ có

thể sống sót trở về nước hay không. Ngẫm lại, hắn luôn cảm khái trước

nỗi bi thương của người anh hùng lúc xế chiều như cha hắn. Lúc này, hắn

vô cùng hoang mang và hơn hết thẩy là thẩn thờ như người mất hồn.

“Anh đã biết tình hình trong nước từ lâu rồi phải không? Sao anh không sớm

nói cho tôi biết? Bây giờ…. Bây giờ làm sao chúng ta trở về được nữa?

Hay là… ngày mai chúng ta lập tức về nước!” cuối cùng Nhan Khai Thần đã

nhận ra quyết định ban đầu của mình là quá sai lầm. Bất luận phải chịu

bao nhiêu sự bất công thừ suy cho cùng đó vẫn là tổ quốc của nàng, là

nhà của nàng. Ở đó còn có anh họ ngày ngày ngóng trông nàng trở về. Đó

là sự thực mà đến chết cũng không thể chối bỏ. Sao nàng có thể đành lòng vứt bỏ những mối vương vấn ấy, rời khỏi ngôi nhà dù đã sống hay chết

đều không thể từ bỏ ấy. Nàng không thể lừa người và tự lừa mình được

nữa.Nhất định phải về nước. Nhất định phải về nhà!

Tuy nhiên,

Tiết Vân Tần chỉ thở dài với vẻ thâm trầm: “Hiện tại thì không được! Sau khi cuộc đàm phán với Đức tan vỡ, Ba Lan đã lún sâu vào vòng xoáy của

chiến tranh. Tôi đoán bây giờ không có nhà tàu nào dám mạo hiểm đi đến

một quốc gia đang đứng trước nguy cơ bị nuốt chửng như TQ đâu. Đó chính

là nguyên nhân vì sau trong sấp vé của tôi thiếu hai vé tàu năm nay.”

“Ý anh là…”

“Đúng vậy, Không thể về được nữa.” Hắn gằng từng chữ thật rõ ràng, không

giống như đang nói mà cứ như lấy dao khắc chữ vào màng nhĩ của đối

phương. Đau đớn đến thấu tim.