Quyển 1 - Chương 4: Số phận an bài. Duyên do trời định

Sáng sớm, trời lất

phất mưa, Tư Kỳ biết hoa dạ hợp ưa ấm sợ lạnh, cũng biết đây là chậu hoa mà cậu chủ yêu thích nhất, bèn vội vàng bê nó vào phòng. Thư phòng

phảng phất hương thơm dìu dịu khiến nàng bỗng cảm thấy thật ấm áp. Tư Kỳ đặt chậu hoa xuống rồi quay trở lại bàn luyện chữ, mải miết hoàn thành

bài tập cậu chủ giao. Nhưng viết được mấy chữ, nàng vẫn thấy gượng gạo

thế nào ấy, hình như vận lực không đủ.

Đỗ Hoài Dung tới gần, liếc mắt nhìn rồi nhắc nhở: “Lưng phải thẳng, bút phải cầm chắc, từng nét

chữ phải biết thu biết thả. Tay đừng có cứng đờ như thế. Cô luyện chữ mà người lúc nào cũng cứng nhắc như vậy thì làm sao chữ viết uyển chuyển

được. Viết lại đi!”

Tư Kỳ thở dài, bỏ tờ giấy đang viết dở đi,

thay bằng tờ giấy mới. Vừa hạ bút thì bên cạnh đã vang lên tiếng thở dài ngán ngẩm, tiếp đó là giọng nói của cậu chủ: “Cô xem cho kỹ nhé. Phải

thu lực lúc viết nét móc này, cổ tay hướng vào trong rồi chuyển, bút sẽ

được nhấc lên một chút…”

Vừa nói, Đỗ Hoài Dung vừa cầm chặt tay

nàng, nhẹ nhàng tô một nét móc trong theo nét mờ đã vẽ sẵn. Đoàn Tư Kỳ

thoáng nhìn đã thấy nét bút mà cậu chủ cầm tay nàng viết là nét đẹp nhất trong cả chữ, lại nhìn mu bàn tay vừa được cậu chủ chạm vào, má chợt

ửng hồng, việc luyện chữ càng trở nên khó nhọc.

Đỗ Hoài Dung thấy nàng đã hiểu lời mình, liền trở về bên chiếc đôn tròn đặt ở phía trong

cùng của thư phòng, một mình ngồi đánh cờ vây. Nhân lúc cậu chủ không

chú ý, Tư Kỳ lén quay sang nhìn trộm. Nàng thấy tay trái cậu chủ đang

nâng hộp đựng quân cờ, tay phải kẹp một quân trắng, đôi lông mày nhíu

chặt như đang vắt óc nghĩ xem tiếp theo nên đi thế nào, nàng không giấu

được nụ cười mỉm e thẹn. Cũng chẳng rõ vì sao nàng lại thấy vui như vậy, nụ cười cuối cùng cũng hé nở càng lúc càng nồng theo hương hoa. Một

khi không biết duyên do thì càng khó dừng lại.

“Bộp!” Quân cờ

trắng trong tay cậu chủ bị ném vào hộp. Đỗ Hoài Dung khẽ thở dài, lấy

tay trộn cả bàn cờ một cách không cam tâm, lẩm bẩm: “Tiếc quá! Chỉ thiếu một nước.”, hai chân mày dần dần dãn ra.

Tư Kỳ dừng bút, bước đến giúp cậu chủ thu cờ, vui vẻ nói: “Cậu tự đánh với mình, tự công tự thủ nên đương nhiên là khó rồi.”

“Câu này nghe rất quen tai.” Đỗ Hoài Dung bất giác nói với nàng.

Tư Kỳ vô tư tiếp lời, mặt mày hớn hở như thể vừa được thầy giáo hỏi một

câu mà mình đã biết câu trả lời: “Lần trước trong cuốn tạp ký cậu cho

tôi mượn có một đoạn thế này: Tình cảm nam nữ tựa ván cờ. Một công một

thủ chẳng hơn thua. Sóng gió chưa nổi đầu đã vỡ. Đợi xem thành bại một

ván cờ. Đọc xong, nàng tràn đầy tự tin đợi thầy khen ngợi.

Đỗ

Hoài Dung quay đầu lại, không ngờ nàng đọc đoạn thơ con cóc đó mà cũng

nghiêm túc đến vậy, không nhịn được cười. “Cô toàn đọc linh tinh, chẳng

biết ngượng mồm gì cả.”

Nhưng thấy Tư Kỳ chợt xị mặt xuống, anh

vội vàng vớt vát một câu: “Nhưng cô cũng chăm chỉ lắm. Có điều, sau này

đừng học thuộc mấy câu kiểu này nữa. Không hay ho gì đâu.”

“Mấy câu này viết sai ạ?”

“Cú pháp không sai nhưng những chuyện như vậy thà không có còn hơn.”

“Lẽ nào vì nam nữ luôn vướng vào vòng yêu hận không thoát ra được nên cậu

mới thấy thà không có còn hơn?” Câu hỏi của Đoàn Tư Kỳ vừa mang ý chất

vấn vừa mang ý phản bác, lần đầu tiên nàng dám ngẩng đầu nhìn thẳng vào

mắt Đỗ Hoài Dung.

Đỗ Hoài Dung sững sờ vì kinh ngạc, hồi sau mới

hỏi: “Cô học những điều này ở đâu thế?” Nếu không phải rút ra kết luận

từ một cuốn sách nào đó thì chỉ còn khả năng nàng đã từng trải nghiệm

chuyện yêu đương.

Anh nhíu mày rồi chậm rãi nói: “Hay là…” Nửa

câu sau anh không nói ra, cũng không muốn nói rõ, chỉ cảm thấy những lời nói ngông cuồng này giống như chiếc gai nhọn vạn năm rút ra cắm vào

người khác rồi tự cắm vào mình. Thường ngày đầu óc anh rất sáng suốt,

không hiểu sao hôm nay bỗng thấy mờ mịt như bị phủ một màn sương vậy.

Đoàn Tư Kỳ thấy sắc mặt cậu chủ hơi lạ, biết mình đã lỡ lời, liền cảm thấy

hối hận, lẽ ra không nên đọc trộm cuốn tiểu thuyết tân thời trong phòng

cô Tiểu Cửu mời phải.

“Cậu Hai…” Nàng cuống quýt giải thích nhưng đối phương đã không muốn nghe nữa. “Mau thu dọn bàn cờ đi.” Đỗ Hoài

Dung lẳng lặng đặt hộp đựng cờ trên tay xuống, thả nốt quân trắng vào

rồi đóng lại.

Đúng lúc đó, ngoài cửa có tiếng gia nhân vọng vào: “Cậu Dung, ông mời cậu đến Vinh Thọ Viên ngay bây giờ. Bên đó có việc gấp ạ.”

Một năm Đỗ lão gia chẳng nói chuyện quan trọng với con trai được mấy lần,

Đỗ Hoài Dung biết mình chỉ là phế nhân trong nhà, không nói không rằng

quay người, lẳng lặng đi theo gia nhân.

Thấy cha, Đỗ

Hoài Dung liền gật đầu chào rồi cúi mình hành lễ vô cùng kính cẩn. Bất

luận Đỗ lão gia nói gì, anh đều yên phận ngồi trên ghế nghe với khuôn

mặt vô cảm. Vòng vo một hồi, cuối cùng ông ta cũng đi thẳng vào vấn đề

chính: “Hoài Dung à, con cũng đến tuổi thành gia rồi. Tục ngữ nói: Trong ba tội bất hiếu thì không có con nối dõi tông đường là tội nặng nhất.

Ta và mẹ con đã nghĩ kĩ rồi, giờ đã đến lúc phải bàn chuyện hôn sự cho

con.”

Đỗ Hoài Dung bỗng thấy sống lưng ớn lạnh, thì ra mấy câu

thăm hỏi bệnh tình khi nãy chỉ là giả, bắt anh lấy vợ sinh con mới là

mục đích thật. Nếu có ngày cha nói với anh nửa câu quan tâm, nửa lời ấm

áp thì chắc bệnh tình của anh đã không kéo dài đến tận hôm nay.

Đỗ lão gia thấy con trai im lặng, nghĩ anh đã đồng ý, liền thao thao bất

tuyệt: “Tuy gia đình chúng ta không phải hộ buôn bán giàu có gì nhưng

gốc gác lại cao sang, bởi vậy chọn con dâu nhất định phải chọn tiểu thư

con nhà khuê các, môn đăng hộ đối mới không hổ thẹn với tổ tông. Cha đã

ngắm sẵn một nhà, mẹ con cũng thấy rất ưng ý.”

Khái niệm “rất ưng ý” chỉ áp dụng với tiêu chuẩn của cha mẹ chứ “rất ưng ý” trong mắt Đỗ

Hoài Dung mãi mãi chẳng bằng một câu qua quýt của hai người. Lệnh của

cha mẹ, lời của mai mối đôi lúc cũng giống như một hợp đồng bán thân, đã chịu ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ thì phải lấy cả đời ra mà báo

đáp. Không phải Đỗ Hoài Dung không muốn phản kháng mà là chẳng có đường

phản kháng, giống như nắm đấm anh đang giấu trong ống tay áo lúc này

chẳng dám thò ra ngoài, anh không có dũng khí để thốt ra một tiếng

“không”.

“Khuê nữ con nhà danh giá đến nhà mình cầu thân không

thiếu, cho nên cha muốn sớm quyết định chuyện này cho xong. Chiều nay,

thợ chụp ảnh sẽ đến chụp ảnh chân dung cho con để bên kia tiện xem mặt.”

Đỗ lão gia chẳng tự hào về điểm gì của con trai, ngoại trừ ngoại hình. Nếu có thể kết thông gia với nhà họ Đinh thì nhà họ Đỗ chỉ có lợi chứ không có hại, huống hồ trong lòng ông ta còn đang ấp ủ một dự tính khác. Chả

là cô con gái Đỗ Hoài Bích đang du học ở Anh của ông ta lại học cùng

trường với đại công tử Khang Thiếu Đình, con trai cả của Tổng tư lệnh

quân khu Hồ Bắc. Hai người không chỉ quen biết mà còn khá thân thiết với nhau, bởi vậy ông ta muốn mượn chuyện hôn sự với nhà họ Đinh để nâng

cao danh tiếng cho nhà mình, sau này kén được rể quý thì cũng không đến

nỗi mất mặt.

“Sao thế? Sao con chẳng nói gì, lẽ nào không vừa ý?” Đỗ lão gia phát hiện con trai cứ im lặng nên lấy làm lạ. Ông ta không

hiểu vì sao Đỗ Hoài Dung lại lạnh nhạt với hỉ sự này đến vậy.

“Hôn nhân đại sự do cha mẹ quyết định, con đâu dám có ý kiến.” Đỗ Hoài Dung

cúi đầu, cảm giác cơn lạnh xuyên thấu tâm can vừa nãy đã bị thiêu cháy

thành than bởi cốc trà nhài bốc khói nghi ngút bên cạnh rồi trốn ra

ngoài theo làn khói phiêu lãng.

“Sau khi thành thân, người phải

đối diện với trăm năm cuộc đời là cậu chứ nào còn ai khác.” Tiết Vân Tần tình cờ đi ngang qua, chêm vào một câu khiến Đỗ lão gia không khỏi phật ý. Sở dĩ Tiết Vân Tần dám nói như vậy trước mặt anh rể họ cũng vì nghĩ

đến tình nghĩa thường xuyên đánh cờ với Đỗ Hoài Dung, vậy mà Đỗ Hoài

Dung vẫn không dám ngẩng đầu nói câu nào.

“Nó không phản đối là

được rồi. Cậu là trưởng bối, chẳng thay tôi khuyên nhủ nó thì thôi lại

còn đổ thêm dầu vào lửa.” Đỗ lão gia nhíu mày vẻ không hài lòng rồi tiếp tục quay sang nhắc lại chuyện hôn sự: “Con gái nhà ấy tên là Đinh Thục

Phương. Vì Đinh lão gia không thích lấy vợ lẽ nên chỉ có một cô con gái

với chính thất. Từ nhỏ con bé đã được giáo dục rất cẩn thận, nghe nói

tài mạo rất mực song toàn. Lấy được Đinh tiểu thư làm vợ khác gì hổ được chắp cánh, ngoài ra chúng ta còn có thể sáp nhập cả gia sản nhà họ Đinh nữa. Tuy nhà họ Đinh là địa chủ thuê đất làm ăn nhưng gia nghiệp cũng

không nhỏ. Ở ngoại thành có mấy công xưởng, tất cả đều là đất nhà họ

đấy. Xưởng dệt vải nhà mình gần đây đang cần mở rộng quy mô, trong khi

nội thành cứ năm ngày ba trận náo loạn, bao nhiêu công nhân bị bắt vào

đồn. Nếu được họ ra tay tương trợ thì chuyện mở rộng xưởng coi như đã

thành công một nửa. Cho nên, bất luận thế nào cũng phải kết thông gia

với nhà họ Đinh.” Đỗ lão gia đã muốn làm chuyện gì thì không ai được

phép cản trở.

“Hoài Dung hỏi cưới Đinh tiểu thư là phúc phận của

nhà họ Đinh, chắc họ phải cầu Thần khấn Phật mãi mới kiếm được ông thông gia tài cao hiểu rộng như anh rể đây. Đúng là một cuộc hôn nhân môn

đăng hộ đối, tốt đẹp quá còn gì. Anh rể, anh tính toán đâu ra đấy, không hổ danh là một thương gia tài ba.”

Nói rồi, Tiết Vân Tần giơ

ngón tay cái lên tỏ ý khâm phục. Đỗ lão gia xoa cằm, thầm đắc ý. Trong

khi Đỗ Hoài Dung thì chậm chạp gật đầu, sắc mặt trắng bệch.

Ra khỏi sảnh của Vinh Thọ Viên, Tiết Vân Tần đi trước Đỗ Hoài Dung có mấy

bước mà giờ đã bỏ xa anh. Mấy lần Đỗ Hoài Dung định gọi hắn nhưng lại

chẳng thể nào mở miệng. Đến khi không thể chịu được nữa, anh mới dứt

khoát đuổi theo, hỏi: “Muốn đánh cờ không?”

Tiết Vân Tần lạnh nhạt đáp: “Khi nào cậu thắng được bản thân thì hẵng đến tìm tôi.” Dứt lời, hắn bỏ đi một nước.

Đỗ Hoài Dung ngây người đứng đó hồi lâu. Trên đường trở về Quy Phác Viên,

mấy gia nhân biết tin liền chạy ra chúc mừng, Đỗ Hoài Dung không thèm

đoái hoài đến đám người đang khua chân múa tay sau lưng. Khoảnh khắc ấy, dường như ngay cả khu vườn này cũng không còn là vùng trời của anh nữa. Vậy đâu là chốn cho anh dung thân?

“Cậu Hai, cậu về rồi à?”

Thoáng thấy bóng Đỗ Hoài Dung, Tư Kỳ đã chạy ra đón, tay nàng bưng một

cái khay chứa đầy lọ sứ không rõ đựng gì bên trong.

Đỗ Hoài Dung chau mày, chỉ vào mấy chiếc lọ, hỏi: “Cái gì đây?”

“Dạ, khi nãy cậu sang chỗ ông, bà Hai dặn quản gia bảo em mang mấy thứ này

về cho cậu tẩm bổ. Quản gia nói đây toàn là thuốc quý hiếm, dạo trước

nhờ người ta mua tận bên Tây về đấy. Bà Hai nói, uống thuốc này xong, cơ thể cậu sẽ khoẻ hơn, bách bệnh không xâm hại được.” Đoàn Tư Kỳ liến

thoắng nói. “Quản gia còn đặc biệt dặn em phải chăm sóc cậu cẩn thận,

kiểu gì cũng phải khiến cậu mau chóng khoẻ lại. Bởi vì đây chính là đại

sự hàng đầu mà lão gia và bà Hai quan tâm.”

Nàng thành thật thuật lại lời quản gia dặn. Bất luận trong phủ có bao người thầm trù ẻo sau

lưng, nói cậu chủ là ma đoản mệnh, là con bệnh nhưng nàng lúc nào cũng

cầu nguyện cho anh, mong anh được mạnh khoẻ, bình an. Bây giờ có loại

thuốc bổ thần kỳ này thì ngày cậu chủ lành bệnh chắc chắn sẽ không còn

xa. Bởi vậy nàng đường đường chính chính vui thay cho anh, cười thay cho anh.

Theo lý thì Đỗ Hoài Dung phải cảm thấy ấm lòng mới phải,

bởi cả nhà đều quan tâm đến sức khoẻ của anh, đặt sức khoẻ của anh lên

hàng đầu, tìm mọi cách mua bằng được thuốc Tây quý hiếm về cho anh dùng. Nhưng không hiểu sao anh lại thấy lòng mình đắng ngắt thế này? Nếu

không có cuộc liên minh hôn nhân kia thì đời nào anh nhận được nhiều sự

quan tâm đến thế? Lúc anh Cả còn sống, ánh mắt trìu mến của cha chưa bao giờ dành cho anh, nay anh Cả đi rồi, ánh mắt đó vẫn không chịu dừng lại nơi anh. Người trước kẻ sau lúc nào cũng mang anh ra so sánh. Sống cũng thế mà chết cũng vậy, những lời bàn tán của thiên hạ điên cuồng sinh

sôi nảy nở, truyền từ miệng người này đến miệng kẻ khác. Chính vì nghe

thấy những lời ấy nên anh mới chọn cách đóng cửa lòng mình; tai giả

điếc, mắt giả mù cũng là một cách sống.

Nhưng tại sao Tư Kỳ lại

cười với anh? Nếu nàng cũng nói những lời châm biếm ác ý, cũng ném đá

giấu tay như bao kẻ khác thì anh đã không đứng ngồi không yên như lúc

này. Vậy mà nụ cười của nàng lại thuần khiết đến thế, rạng ngời đến thế! Nụ cười ấy khiến nỗi bi thương mà anh cố gắng đè nén xuống tận đáy lòng bấy lâu nay lại lần nữa ngóc đầu dậy, khiến bao công sức của anh đều đổ xuống sông xuống bể.

“Cậu Hai, cậu sao vậy?” Tư Kỳ ngưng cười, lo lắng nhìn cậu chủ.

Đỗ Hoài Dung nén lòng bước ra khỏi nhà, tránh nàng như tránh tà. Anh muốn

tránh xa tất cả người và vật trong Đỗ phủ này. Vừa chạy thục mạng vừa

thở hổn hển, đột nhiên Đỗ Hoài Dung sững người, trong lúc hoảng loạn

chẳng ngờ anh đã chạy đến bên hồ.

Tư Kỳ không đuổi tới gần mà chỉ đứng đằng xa dõi theo bóng Đỗ Hoài Dung. Nàng không biết lão gia đã nói gì với anh nhưng nàng cảm nhận được phản ứng khác thường của cậu chủ,

chắc chắn trong lòng anh đang rất đau khổ…

Tịch dương

dần đổ bóng chiều, vầng mây muộn đã trôi dạt về xa, Đỗ Hoài Dung vẫn

thất thần đứng bên hồ. Trước đây, nếu Tư Kỳ từng cảm thấy bóng lưng của

anh toả nét tiêu điều đến vô tận thì hôm nay, nàng còn cảm nhận được một dư vị khác, dư vị của sự trống rỗng.

Tiêu điều bởi đã rơi rụng

hết rực rỡ, phồn hoa, còn trống rỗng là màu sắc lạc lõng nhất của thế

gian này. Nàng không nỡ để cậu chủ một mình chịu đựng nỗi cô đơn giằng

xé, liền nhẹ nhàng nắm chặt lấy bàn tay anh, khe khẽ vuốt ve, mong

truyền cho anh chút hơi ấm. Như vậy anh sẽ không còn lẻ loi nữa. Cho dù

cả đời anh sẽ chẳng biết nàng từng nắm tay anh nhưng nàng thì không bao

giờ quên, dẫu cái nắm tay ấy chỉ là nắm ở khoảng cách xa, khi nàng nhắm

mắt trái lại rồi lén giơ tay phải của mình phủ lên bóng bàn tay của anh. Trong tâm niệm của nàng, họ đã từng nắm tay nhau thật chặt như thế một

lần.

Có lẽ nàng nên làm gì đó cho cậu chủ. Ngẫm nghĩ một lát, Tư

Kỳ liền quay về phòng, mang bút ra vẽ vội một bức tranh rồi mau mắn bước tới chỗ Đỗ Hoài Dung, giơ bức tranh còn chưa ráo mực đến trước mặt anh, nhanh nhảu nói trước: “Cậu chủ, cậu thấy tôi vẽ con vịt có giống

không?”

Tư Kỳ chưng ra vẻ mặt vô cùng nghiêm túc muốn thỉnh giáo

nên Đỗ Hoài Dung không thể thoái thác. Liếc mắt nhìn một cái, trong phút chốc anh chỉ biết méo miệng cười. Đây mà là vịt sao? Rõ ràng là một con gà trống oai vệ. Nói gì thì nói, Tư Kỳ đã theo anh bấy lâu, cơ bản đã

học được bảy, tám phần công phu, vậy mà sao đến giờ vẫn không phân biệt

được gà trống với vịt? Nhưng chỉ trong giây lát, Đỗ Hoài Dung chợt hiểu

ra, nàng đang cố ý chọc cho anh cười. Nếu là con người giả nhân giả

nghĩa thì làm sao thấu hiểu được sự trân quý của lòng chân thành tha

thiết? Trong khoảnh khắc, Hoài Dung bất chợt cảm thấy nàng gần gũi biết

mấy, trong sáng biết mấy.

“Tư Kỳ…” Hoài Dung vô thức gọi tên

nàng, trực giác mách bảo anh nên nói gì đó, ngặt nỗi trong lòng chất

chứa bao nhiêu lời mà không sao thốt ra khỏi miệng.

Tư Kỳ nhẫn

nại chờ đợi. Nàng tưởng cậu chủ sẽ thổ lộ với mình nhưng đợi mãi, đợi

đến khi sự im lặng bị thời gian bịt kín, anh mới hững hờ buông một câu:

“Không có gì. Về thôi.”

Cuối cùng, Đỗ Hoài Dung vẫn không thể mở

lòng. Tuy gần nhau trong gang tấc mà sao nàng thấy người ấy như xa mãi

tận chân trời. Cuối cùng nàng vẫn không thể bước vào vòng tròn khép kín quanh người ấy.