Chương 12
Vào một buổi chiều cuối tháng Tám, một đám con gái ngồi trong nhà cô Hatchard giữa đám cờ bay phất phới, giấy mỏng màu đỏ, xanh, trắng, và những cuộn giấy hoa.
North Dormer đang chuẩn bị cho tuần lễ “Trở về Mái Nhà Xưa.” Hình thức chia sẻ tình cảm đó vẫn còn trong những giai đoạn đầu với một ít tiền lệ, và mong muốn làm thành mẫu mực để lan truyền từ người này sang người khác, vấn đề này đã trở thành một chủ đề thảo luận sôi nổi và kéo dài dưới mái nhà của cô Hatchard. Việc động viên, tổ chức lễ kỷ niệm thì cũng có phần nào từ những người đã rời bỏ North Dormer hơn là những người bị bắt buộc ở lại đó, đồng thời cũng có vài khó khăn trong việc đánh thức nhiệt tình của dân làng. Nhưng phòng khách của cô Hatchard là trung tâm luôn chào đón những khách đến và đi từ Hepburn, Nettleton, Springfield và thậm chí ở những thành phố xa xôi khác. Bất cứ khi nào có một người khách, thì người ấy được dẫn đi ngang qua hành lang, và chào các cô gái đang cắm cúi chuẩn bị những món đồ xinh đẹp.
“Tất cả là những tên cũ. Tất cả là những tên cũ.” Cô Hatchard nghe như vậy khi chống cây nạng lộp cộp trong hành lang. “Targatt Sollas Fry: đây là cô Orma Fry may những ngôi sao trên tấm trướng rủ cho phòng đàn organ. Đừng động đậy, các cô gái, và đây là cô Ally Hawes, người thợ may khéo tay nhất của chúng ta... còn đây là cô Charity Royall, người luôn luôn làm cho những tràng hoa của chúng ta luôn xinh tươi. Tôi thích ý tưởng tất cả đều được làm bằng tay, phải vậy không? Chúng ta không phải mời những người khéo tay từ nơi khác tới. Cháu họ tôi, Lucius Harney, kiến trúc sư, các vị biết đấy, anh ta ở đây để soạn một quyển sách nói về “những ngôi nhà thực dân” - anh ta có kinh nghiệm làm mọi thứ rất khéo, nhưng các vị phải đến để xem bản phác thảo của anh ta mà chúng ta sẽ gắn ở “sảnh đường tỉnh.””
Một trong những kết quả gây hoang mang cho ngày lễ “Trở về Mái Nhà Xưa”, sự thật là sự tái xuất hiện của Lucius Harney trên con đường làng. Anh ta nói một cách mơ hồ rằng mình ở cách đấy không xa, nhưng những tuần qua không ai thấy anh ta ở North Dormer. Cũng có một bản báo cáo nói rằng anh ta đã rời khỏi Creston River, nơi mà anh ta nói sẽ ở đó để đi đến vùng lân cận cho tiện. Tuy nhiên, sau chuyên về nhà của cô Hatchard, anh ta trở về phòng cũ của mình trong ngôi nhà của cô Hatchard và bắt đầu lập kế hoạch cho ngày lễ. Anh ta lao mình vào những ý tưởng hài hước lạ thường và cho ra nhiều bản phác thảo, không biết mệt khi đưa ra những kế sách, do đó anh ta đã đẩy lùi những hoạt động uể oải và truyền cho dân làng sự năng nổ nhiệt tình.
Cô Hatchard nói: “Lucius đã có cái cảm giác như vậy về quá khứ và anh ta đã thức tỉnh chúng ta về ý thức quyền lợi của chúng ta.” - cô kéo dài các từ sau cùng mà nó được yêu thích nhất. Trước khi dẫn khách trở về phòng khách, cô ấy nói đi nói lại cả trăm lần rằng anh ta rất có dũng khí, muốn khuấy động North Dormer bé nhỏ để có được một tuần lễ hội “Trở về Mái Nhà Xưa” cho riêng mình, trong khi những nơi lớn hơn chưa có ý tưởng đó, nhưng có phải các đoàn thể, công ty thì nhiều hơn số dân trong làng phải không? Và dĩ nhiên North Dormer thì có đầy đủ nào là hội về lịch sử, hội văn học (đâu đây có tiếng thở vui sướиɠ dành cho Honorius) và giáo đoàn, anh ta biết cung cách cũ dành để phụng vụ cộng đoàn theo kiểu England du nhập vào năm 1769. Trong thời đại duy vật giàu sang để hình thành một tiền lệ là tìm về những lý tưởng cũ, gia đình, vườn tược, nhà cửa và còn nhiều thứ khác nữa thì thật là quan trọng. Đoạn kết của bài diễn văn này thường mang cô Hatchard nửa đường băng qua hành lang, để những cô gái trở lại những hoạt động bị cắt ngang của mình.
Ngày cuối trước ngày lễ kỷ niệm là ngày mà Charity kết hoa độc cần vào những tràng hoa cho đám diễu hành. Khi cô Hatchard triệu tập các nàng trinh nữ lại để cộng tác trong việc chuẩn bị ngày lễ thì ban đầu Charity lánh xa, nhưng nàng biết rõ rằng nếu mình không xuất hiện thì sẽ kí©h thí©ɧ sự phỏng đoán lung tung của dân làng, và miễn cưỡng nàng đành phải tham gia vào đám người làm việc. Theo bản tính tự nhiên, lúc đầu các cô gái mắc cỡ, e thẹn và bối rối về kế hoạch ngày lễ nhưng chẳng mấy chốc họ đã trở nên quan tâm đến những chi tiết thú vị về công việc của họ, và họ hồ hởi vì được đánh giá tốt. Họ không bỏ lỡ những buổi chiều ở nhà cô Hatchard, trong khi họ cắt, may, xếp và dán, tiếng họ ngân vang như dàn hợp xướng hòa vào tiếng máy may trong khi Charity im lặng thu mình trong cái vỏ riêng tư của mình như không nghe thấy sự huyên thuyên của các cô gái.
Tinh thần nàng hầu như chưa hồi phục trước niềm vui khuấy động xung quanh. Từ buổi chiều Harney theo kịp nàng trên con đường lên Núi, nàng trở về ngôi nhà đỏ và đã sống ở North Dormer như thể sống một nơi lơ lửng trên không. Vì Harney nên nàng mới trở về nhà. Anh ta không đồng ý cho nàng làm những chuyện không nên làm và thuyết phục nàng chấm dứt bất cứ sự rồ dại nào. Nàng không còn gì để phải sợ ông Royall. Về khoản này thì nàng tự tuyên bố chắc chắn rằng nàng sẽ không bao giờ nhận lời làm vợ ông qua hai lần ông cầu hôn cho dù ông có miễn tội cho nàng hay không. Sự thù ghét ông ta làm cho việc đó bất thành. Trước đôi mắt của Harney nàng không nói điều gì tha thứ cho ông Royall.
Vì sự an toàn của nàng, Harney đã tìm thấy rất nhiều lý do để thúc dục nàng trở về. Có những việc hầu như không thể trả lời được, nàng không có nơi nào để đi đó là điều trước mắt. Nhưng một điểm nổi bật nhất trong những lý do là, nếu nàng ra đi thì coi như thừa nhận công khai mình có lỗi. Vạn bất đắc dĩ, nếu không thể tránh được, những tin đồn của vụ xì căng đan ở Nettleton về đến North Dormer, làm sao giải thích được sự biến mất của nàng? Lúc đó người bảo hộ nàng sẽ tước quyền và công bố nhân cách của nàng, rồi nàng tức khắc không được ở trong nhà ông ta nữa. Những người đi tìm nàng sẽ có động cơ kết luận những điều chẳng tử tế gì. Nhưng nếu nàng trở về ngay tức khắc, tiếp tục cuộc sống bình thường của mình, sự việc xảy ra sẽ giảm dần. Rồi đến một lúc nào đó thiên hạ sẽ cho là trong một cơn bộc phát của một ông già say xỉn và trác táng đã gây ô danh cho người ở cùng nhà với ông.
Charity thấy sức mạnh của cuộc thảo luận, nhưng nàng bằng lòng thuận theo chẳng qua là vì Harney muốn thế. Kể từ buổi chiều trong căn nhà hoang đó nàng có thể tưởng tượng rằng không có lý do nào để làm hoặc không làm bất cứ một điều gì nếu sự thật Harney muốn hay không muốn. Tất cả sự thúc đẩy mâu thuẫn buông xuôi của nàng được kết hợp làm một, đó là sự châp nhận định mệnh theo mong muốn của anh ta. Nàng cảm thấy ở anh ta có đủ mọi quyền lực của một người đàn ông, vậy mà có những lúc nàng thấy mình mạnh mẽ hơn. Nhưng tất cả cuộc sống còn lại đã trở thành một vòng tròn u ám xung quanh trung tâm tình cảm rực rỡ của họ. Bất cứ khi nào nàng thôi không nghĩ về điều đó, thì nàng thấy mình nằm trên cỏ và nhìn lâu lên bầu trời, đôi mắt ngập tràn ánh sáng mà mọi vật xung quanh nàng thì mờ mờ.
Mỗi lần cô Hatchard vào phòng làm việc, buông một cái nhìn bóng gió xuống người cháu họ, chàng kỹ sư, thì cô Hatchard cũng nhìn Charity như vậy. Nàng để cái tràng hoa độc cần đang kết trên hai gối mình và ngồi trong một trạng thái xuất thần. Thật là vô lý khi cô Hatchard nói về Harney trong cái kiểu chiếm hữu thân thiện, như thể cô ấy đang yêu sách hay là biết một điều gì đó về anh ta. Nàng, Charity Royall, là người duy nhất trên trái đất này thật sự hiểu anh ta từ lòng bàn chân cho đến chân tóc: những tia sáng trong đôi mắt, những cung bậc trong âm thanh, tất cả những gì thích hoặc không thích, và biết tất cả mọi thứ về anh ta như một đứa bé biết những bức tường phòng ngủ của mình khi thức dậy vào mỗi buổi sáng. Sự thật là không ai xung quanh nàng đoán hoặc sẽ hiểu cái gì làm cho đời sông nàng trở nên tách rời và không thể xâm phạm, như thể không có quyền lực nào làm tổn thương hay quấy rầy nàng chừng nào bí mật của nàng còn được an toàn.
Căn phòng trong đó các cô gái ngồi là phòng ngủ của Harney. Anh ta bị dời lên trên lầu, để nhường phòng cho những người thợ làm việc cho ngày lễ “Trở về Mái Nhà Xưa.” Nhưng bàn ghế thì chưa chuyển đi, Charity ngồi đó miên man nhớ lại nàng đã nhìn anh ta vào giữa đêm hôm nàng đứng ở góc vườn. Cái bàn mà Harney đã ngồi ở đó, bây giờ các cô gái đang ngồi xung quanh, và chỗ ngồi của nàng gần bên chiếc giường nàng thấy anh ta nằm. Thỉnh thoảng, khi không có ai nhìn, nàng cúi xuống có vẻ như đang nhặt một thứ gì đó, nhưng thực ra nàng để đôi má của mình tựa vào chiếc gối.
Khi hoàng hôn đến, các cô gái giải tán. Công việc đã làm xong, buổi sáng hôm sau những tấm trướng xếp nếp, những vòng hoa sẽ được treo lên và những cuộn băng rôn kết hoa sẽ được đặt ở đại sảnh tỉnh. Những người khách đầu tiên được chở từ Hepburn đến đúng giờ để dự tiệc buổi trưa dưới một cái lều trong miếng đất trống nhà cô Hatchard. Đứng tựa trên chiếc nạng ở cổng, cô ấy cám ơn những người phụ tá trẻ và vẫy chào tạm biệt khi nhìn họ đi xuống đường.
Charity là người trước tiên tách ra khỏi đám đông, nhưng ở cổng nàng nghe Ally Hawes gọi vói theo, và ngập ngừng quay lại.
“Cậu sẽ đến thử áo chứ?” - Ally vừa hỏi vừa nhìn nàng với sự ngưỡng mộ thèm muốn. “Tớ muốn chắc chắn tay áo không xoắn như hôm qua.”
Charity nhìn trân trân với đôi mắt sững sờ. “Ôi, đẹp lắm mà!” - nàng nói và vội vã bước đi mà không nghe Ally phản kháng. Nàng muốn chiếc áo của nàng phải đẹp như áo của các cô gái khác - sự thật muốn được như vậy thì phải để lộ ra phần còn lại, vì vậy mà nàng định tham gia vào việc tập thể dục - nhưng nàng không có thời gian mà để tâm trí đến những việc như vậy.
Có chìa khóa đeo trên cổ, nàng nhanh chân đến thư viện. Nàng lôi mạnh chiếc xe đạp ở phía sau hành lang và dẫn nó ra mép đường. Nàng nhìn xung quanh coi có cô gái nào đang đi tới không nhưng bọn họ bị kéo về hướng Town Hall, nên nàng yên tâm phóng lên yên xe và quẹo qua đường Creston. Đường đi xuống Creston là một con dốc liên tục, vì vậy đôi bàn chân nàng giữ chắc bàn đạp và bay xuyên qua buổi chiều đứng gió giống như một chú diều hâu đang bay liệng trên đôi cánh bất động của mình. Hai mươi phút sau nàng đã rời nhà ông Royall và đang chạy lên con đường rừng - nơi Harney đã đuổi kịp nàng vào cái ngày nàng làm một chuyến bay xa. Vài phút sau nàng nhảy khỏi xe đạp trước cổng ngôi nhà hoang.
Trong buổi hoàng hôn nhạt nắng, mặt trời giống như một miếng vỏ sò mỏng mảnh bị sấy khô và dễ vỡ qua những mùa mưa nắng. Charity kéo chiếc xe đạp theo mình ra phía sau, nàng thấy những dấu hiệu có người ở gần đây. Cửa bếp được làm bằng những tấm ván thô, khi mở cửa bước vào phòng, nàng thấy có sẵn đồ đạc được bày biện theo kiểu cắm trại cổ xưa. Trong cửa sổ là một cái bàn, cũng được đóng bằng những tấm ván, trên mặt bàn có một cái bình bằng đất nung cắm một bó hoa cúc dại, hai cái ghế vải để bên cạnh, và trong một góc nhà có một cái nệm và một chiếc mền Mỹ trên đó.
Căn phòng vắng tanh, nàng dựa chiếc xe đạp vào nhà, Charity leo lên dốc đồi và ngồi trên một hòn đá dưới một cây táo. Trời hoàn toàn đứng gió, nàng ngồi đó, nghe tiếng chuông xe đạp leng keng trên đường ở đằng xa.
Nàng luôn luôn vui khi mình đến ngôi nhà nhỏ trước Harney một chút. Nàng thích có thời gian để cảm nhận mọi chi tiết ngọt ngào thần bí - những bóng mát của những cây táo đang đu đưa trên đồng cỏ. Cây óc chó già che bóng trên con đường làng, những bãi cỏ xoài mình về hướng tây trong ánh nắng ban chiều - trước khi nụ hôn của anh ta làm cho chúng tàn phai. Những giờ khắc trải qua trong nơi tĩnh lặng đó làm cho mọi thứ trở thành mỏng mảnh giống như ký ức của một giấc mơ. Sự thật kỳ diệu mở ra cho nàng một con đường mới vươn tới tri thức từ những mớ bòng bong. Nàng đã sông hết quãng đời mình giữa những người ít khi dùng đến tri giác mà giờ đây những tri giác của họ dường như bị khô héo. Càng kỳ diệu hơn, những sự âu yếm của Harney là những lời không thể nào diễn tả được. Nàng luôn luôn nghĩ đến tình yêu như một cái gì đó lúng túng và lén lút, nhưng anh ta đã làm cho nó sáng chói như ánh nắng mùa hè.
Sau ngày nàng gặp anh ta trên đường đến ngôi nhà hoang thì anh ta gói ghém đồ đạc rời Creston để lên đường đi Boston - với một cái túi xách tay, anh ta nhảy lên xe lửa ở ga thứ nhất để đi lên đồi. Vì những tuần lễ trong tháng Tám trời không mưa nên anh ta đã cấm trại trong ngôi nhà hoang, lấy trứng, sữa từ một nông trại xa xôi trong thung lũng, nơi đó không ai biết mặt anh ta, và nấu nướng trên một cái đèn cồn. Anh ta thức dậy mỗi ngày khi mặt trời lên, lao xuống hồ và nằm nhiều giờ trong rừng độc cần tỏa hương phía trên ngôi nhà, hay lang thang dọc theo khe núi Phượng Hoàng, xa trên những thung lũng xanh mờ hơi sương trải từ đông sang tây giữa các ngọn đồi bất tận. Và trong buổi chiều thì Charity đến với anh ta.
Nàng trích ra một phần tiền tiết kiệm để thuê một chiếc xe đạp trong một tháng, và mỗi ngày sau bữa ăn chiều, ngay khi người giám hộ của nàng đến văn phòng thì nàng vội vàng đến thư viện, lấy xe đạp và lao xuống con đường Creston. Nàng biết ông Royall cũng như những người khác ở North Dormer, hoàn toàn biết được việc nàng sử dụng chiếc xe đạp để làm gì. Nàng cho rằng ông không còn một tí quyền lực nào, nếu như bị tra hỏi thì nàng sẽ nói cho ông biết sự thật.
Nhưng họ không nói chuyện với nhau từ cái đêm ở bến tàu ở Nettleton. Ông trở về Nettleton vào ngày thứ ba sau cuộc chạm mặt đó, ông về đến nhà khi Charity và Verena đang ngồi ăn bữa tối. Ông kéo ghế, lấy khăn ăn từ cái hộc gỗ bên cạnh, kéo nó ra khỏi đai và tự ngồi vào bàn với một tư thế thờ ơ lạnh nhạt như thể ông vừa từ cuộc họp thường lệ ở nhà Carrick Fry về. Thói quen lâu ngày đó đã trở thành tự nhiên, nên Charity không thèm nhướn đôi mắt lên để nhìn khi ông bước vào. Nàng muốn cho ông hiểu một cách đơn giản rằng nàng rời bàn trong khi ông vẫn còn đang ăn không phải là tình cờ. Nàng không thèm nói một lời và bước vào phòng mình. Sau đó ông tạo nên một thói quen mới là nói chuyện lớn tiếng và cởi mở với Venera bất cứ khi nào Charity ở trong phòng; nhưng vẫn không có gì thay đổi trong những mối quan hệ của họ.
Trong khi chờ Harney, nàng không suy nghĩ những điều đã xảy ra một cách mạch lạc được nhưng chúng vẫn còn đọng lại trong trí óc nàng như một cảnh quang u buồn, trái ngược lại những giờ ngắn ngủi bên anh ta. Những giây phút ấy giống như những ngọn lửa rừng hừng hực cháy. Những gì nàng chưa biết về anh ta, dù tốt hay xấu, thì nàng không cho là quan trọng. Anh ta đã chộp lấy và mang nàng đi đến một thế giới mới. Rồi từ nơi ấy, những giờ phút bình yên, linh hồn nàng trở về để hình thành những hoạt động thông thường nào đó, nhưng tất cả thật mỏng manh và không có thật đến nỗi đôi khi nàng tự hỏi liệu những người trong đám đông có nhận ra khi nàng đi giữa họ hay không.
Sau ngọn Núi đen sì, mặt trời đang lặn trong những tia sáng vàng vọt. Từ cánh đồng cỏ trên sườn đồi, tiếng chuông leng keng của những con bò vang lên, một cụm khói treo lơ lửng trên nông trại ở thung lũng, kéo thành vệt dài trong bầu không khí trong lành rồi tan ra. Một vài phút sau, ánh sáng trong veo trở thành bóng tối, những cánh đồng và những rừng cây không còn rõ nét. Chạng vạng bao trùm vạn vật, những ngôi nhà nhỏ trở nên xám xịt chập chờn như những bóng ma dưới những cành cây táo héo hắt.
Trái tim Charity thắt lại. Đêm về sau một ngày chói chang thường cho nàng cảm giác có một sự đe dọa thầm kín: không biết thế giới sẽ như thế nào nếu như tình yêu chắp cánh bay xa. Nàng tự hỏi không biết mình sẽ ra sao nếu một ngày nào đó nàng ngồi tại nơi này và chờ mong người yêu một cách vô vọng.
Chuông xe đạp của anh ta vang lên inh ỏi trong con đường nhỏ, thoáng chốc nàng đứng ở cổng và đôi mắt anh ta đang cười nhìn nàng. Họ đi ra bãi cỏ dài, và đẩy cửa mở ra phía sau ngôi nhà. Lúc đầu căn phòng có vẻ khá tối, họ phải dò dẫm tay trong tay tìm đường. Qua khung cửa sổ, bầu trời có vẻ sáng hơn, một ngôi sao le lói trên đó giống như một con đom đóm đậu trên bó hoa cúc dại trong bình hoa bằng đất nung.
Harney đang giải thích: “Có rất nhiều việc phải làm trong những phút cuối, anh phải lái xe xuống Creston gặp một vài người đến với bác anh trong buổi trình diễn.”
Anh ta ôm nàng trong vòng tay, hôn trên tóc và trên môi nàng.
Dưới sự ve vuốt của anh ta, mọi vật như chìm sâu trong sự vùng vẫy của nàng và trở nên nở bùng ra như những đóa hoa dưới ánh mặt trời. Nàng xoắn các ngón tay mình trong tay chàng, họ ngồi vai kề vai trong chiếc ghế trường kỷ. Nàng không nghe anh ta xin lỗi vì đến trễ: sự vắng mặt của anh ta có một ngàn mối nghi ngờ làm tan nát lòng nàng. Khi anh ta xuất hiện, nàng không hỏi anh ta đã đi đâu, cái gì đã làm anh ta trễ hẹn, ai đã giữ chân anh ta. Dường như những nơi anh ta ở, những người đã ở cùng anh ta phải cố gắng sống khi anh ta rời xa họ, cũng giống như nàng bị treo lơ lửng vì việc anh ta vắng mặt.
Bây giờ, anh ta tiếp tục nói với nàng một cách liến thoắng, vui vẻ, phàn nàn về sự trễ hẹn của anh ta. Anh ta càu nhàu về thời gian bị bắt buộc của mình. Anh ta cũng nhái cái giọng lo âu thương người của cô Hatchard một cách khôi hài. “Bác ấy nài nỉ ngài Miles mời ông Royall đọc diễn văn ở sảnh đường thành phố ngày mai. Anh vừa mới biết đây thôi.” Charity im lặng, và anh ta nói thêm: “Sau cùng, có lẽ nó sẽ ổn. Không ai khác có thể làm việc đó tốt hơn.”
Charity không trả lời: Nàng không cần biết người giám hộ nàng đóng vai gì trong những nghi thức ngày mai. Ông và những con người trong thế giới bần cùng của nàng không còn tồn tại trong lòng nàng. Nàng không thèm ghét ông ta nữa.
Harney nói tiếp: “Ngày mai anh chỉ nhìn em từ đằng xa thôi, nhưng buổi chiều có vũ hội ở sảnh đường thành phố. Em có muốn anh hứa sẽ không khiêu vũ với bất cứ cô gái nào khác hay không?”
Bất cứ cô gái nào ư? Có những cô gái khác sao? Nàng đã quên mối nguy hiểm đó đã dựng nên một rào cản mà nàng và anh ta dường như ở trong một thế giới bí mật. Trái tim nàng giật mình kinh hãi.
“Vâng, hứa nhé.”
Anh ta cười ôm nàng trong vòng tay: “Không, em khờ quá.”
Anh ta vén tóc trên trán và kéo đầu nàng ra sau theo cái kiểu của mình, anh ta tựa đầu mình lên đó tạo thành một bóng đen giữa mắt nàng và những ánh sao đêm lờ mờ trên nền trời.
Vai kề vai họ đi nhanh vào con đường rừng đến ngôi làng. Một vầng trăng muộn màng nhô lên, tròn vành vạnh và bừng sáng làm cho những rặng núi xám đen trở nên rõ nét đến nỗi những ngôi sao trên cao có vẻ yếu đi giống như sự phản chiếu của chúng xuống nước. Ở bìa rừng, nửa dặm từ North Dormer, Harney nhảy xuống xe đạp, ôm Charity để hôn lần cuối và chờ cho đến khi nàng đi về một mình.
Họ về trễ hơn thường lệ, thay vì mang xe đạp vào thư viện nàng dựng nó phía sau nhà kho và bước vào nhà bếp của ngôi nhà đỏ. Verena ngồi đó một mình, khi Charity bước vào, bà ta nhìn nàng với đôi mắt dịu dàng khó tả và lấy ra một cái dĩa, một cái ly từ trên cái kệ, lặng lẽ đặt xuống bàn. Charity gật đầu cám ơn, bụng thấy đói cồn cào, nàng ngồi xuống ăn ngấu nghiến miếng bánh ngọt và uống hết ly sữa. Mặt nàng đỏ bừng vì chuyến đi ngắn trong đêm, và đôi mắt nàng hấp háy do ánh đèn chói chang trong nhà bếp. Nàng cảm thấy mình như một con chim đêm thình lình bị bắt bỏ vào l*иg.
“Ông không về từ sau buổi ăn tối.” - Verena nói.
“Ông ấy xuống sảnh đường.”
Charity không thèm để ý. Linh hồn nàng đang bay vào rừng. Nàng rửa ly chén của mình rồi đi lên lầu. Khi nàng mở cửa, một điều kinh ngạc chộp lấy nàng. Trước khi ra ngoài, nàng đã đóng cửa chớp lại để tránh cái nắng buổi chiều, nhưng giờ thì chúng nó đã bị bật ra và một dải ánh trăng chiếu qua phòng, đọng lại trên giường có một chiếc áo lụa Trung Hoa màu trắng trinh nguyên nằm trên đó. Charity đã phải chi tiêu nhiều hơn nàng có thể cho chiếc áo mà nó sẽ vượt trội hơn những chiếc áo của các cô gái khác; nàng muốn để cho tất cả North Dormer thấy nàng có giá trị trong sự ngưỡng mộ của Harney. Trên chiếc áo xếp để trên gối, là một tấm khăn voan mà trong các lễ hội, những phụ nữ trẻ hay đội dưới một vòng hoa cúc tây. Bên cạnh chiếc khăn còn có một đôi giày mảnh mai bằng sa tanh mà Ally đã làm ra từ những tài sản thần bí trong một một chiếc rương cũ.
Charity đứng nhìn tất cả những vật phô bày toàn màu trắng. Nó nhắc nàng nhớ lại cảnh tượng trong đêm đầu tiên nàng gặp gỡ Harney. Nàng không còn mộng mị, những sự dịu dàng ấm áp hơn đã thay thế chúng rồi nhưng thật là ngu xuẩn cho cái con Ally, tại sao nó để trên giường nàng toàn những đồ màu trắng thế, giống y hệt như bộ đầm xòe của Hattie Targatt mang về từ Springfield mà những người hàng xóm thấy trong ngày cô ta kết hôn với Tom Fry.
Charity cầm đôi giày sa tanh trắng lên và nhìn chúng một cách tò mò. Chắc chắn vào ban ngày người ta sẽ thấy chúng có một ít vết mòn, dưới ánh trăng nom chúng nó có vẻ như được chạm khắc bằng ngà voi. Nàng ngồi xuống sàn nhà để mang thử, chúng vừa khít một cách hoàn hảo mặc dù khi đứng lên nàng thấy đôi gót cao bị lắc lư một chút. Nàng nhìn xuống đôi chân mình, nó duyên dáng, mềm mại và thanh mảnh. Nàng chưa bao giờ thấy đôi giày như thế trước đây, ngay cả trong những cửa hàng ở Nettleton cũng chưa bao giờ, ngoại trừ một lần nàng thấy chúng trên chân của Annabel Balch.
Một cơn bối rối đau khổ lướt qua nàng. Đôi khi Ally may đồ cho cô Balch khi con người sáng giá đó xuống North Dormer, rồi nó nhặt nhạnh những mảnh vải thừa. Của cải thần bí trong chiếc rương của nó là vải thừa của tất cả những người mà nó may cho, chắc chắn đôi giày đó là của Annabel Balch.
Khi nàng đứng đó nhìn xuống đôi chân mình một cách đăm chiêu, nàng nghe ba âm thanh lách cách của chuông xe đạp dưới cửa sổ phòng mình. Đó là ám hiệu của Harney khi đi ngang qua về nhà. Nàng trượt chân qua cửa sổ trên đôi giày cao gót, đẩy tung cửa chớp và uồm ra. Anh ta vẫy tay và chạy đi, bóng đen của anh ta nhảy múa vui vẻ trên con đường vắng tanh tràn ngập ánh trăng. Nàng tựa vào cửa sổ và nhìn anh ta cho đến khi mất hút dưới rặng vân sam nhà cô Hatchard.