Chương 3
Chiếc ô tô chở Julia chậm rãi xuôi xuống Đại lộ số 5 dưới một cơn mưa rào bất chợt. Tại chỗ xe dừng từ những phút dài qua, bị nghẽn trong đám tắc đường, Julia nhìn chăm chú mặt tiền của một cửa hàng đồ chơi ở góc Phố 58. Cô nhận ra trong tủ kính con rái cá nhồi bông to xù có bộ lông màu xanh xám.
Tilly đã chào đời vào một chiều thứ Bảy giống như chiều hôm nay, khi mưa rơi nặng hạt đến mức nó tạo thành những dòng nước nhỏ chạy ngoằn ngoèo dọc theo những cửa sổ trong phòng làm việc của Julia. Đắm chìm trong suy nghĩ, cô nhanh chóng nhìn thấy ở đó những dòng sông, những đường viền khung cửa sổ bằng gỗ trở thành đôi bờ của một cửa sông Amazon và đống lá cây bị mưa bứt đi trở thành nhà của một động vật lớp thú nhỏ, mà cơn mưa to như trút nước rồi đây sẽ cuốn đi, để lại cộng đồng rái cá trong sự hỗn loạn cực độ.
Đêm tiếp theo trời vẫn mưa như thác đổ. Một mình trong căn phòng công nghệ tin học rộng lớn của xưởng phim hoạt hình nơi cô làm việc, lúc bấy giờ Julia đã vẽ phác thảo những nét đầu tiên cho nhân vật của cô. Không sao đếm xuể hàng nghìn giờ cô ngồi trước màn hình máy tính, vẽ, tô màu, truyền sinh khí, sáng tạo từng vẻ mặt và từng điệu bộ đem lại sự sống cho chú rái cá màu xanh nước biển. Không thể nhớ vô số những buổi họp giờ khuya, nhiều dịp cuối tuần dành để kể lại câu chuyện của Tilly và họ hàng của chú. Thành công do bộ phim hoạt hình mang lại đã đền bù cho hai năm làm việc miệt mài của Julia và năm mươi cộng sự làm việc dưới sự hướng dẫn của cô.
- Tôi sẽ xuống đây, tôi sẽ đi bộ về nhà, Julia nói với người tài xế.
Bác ta chỉ cho cô thấy mức độ dữ dội của cơn dông.
- Đây đúng là thứ đầu tiên tôi thích trong ngày hôm nay, Julia nói chắc, trong khi cửa xe đã khép lại đằng sau cô.
Và người lái xe hầu như không kịp nhìn thấy cô chạy về phía cửa hàng đồ chơi. Mưa rào có hề chi, bên trong quầy kính, Tlly dường như mỉm cười khi thấy cô tới thăm. Julia không thể ngăn mình ra hiệu cho chú; trước sự ngạc nhiên tột độ của cô, một bé gái đứng bên cạnh con thú bông to lớn ra hiệu đáp trả cô. Bà mẹ tóm lấy tay một cô bé một cách thô bạo và cố kéo cô bé về phía lối ra, nhưng đứa trẻ chống cự và nhảy vào vòng tay rộng mở của chú rái cá. Julia lén theo dõi cảnh tượng. Bé gái bám lấy Tilly và bà mẹ phát vào tay cô bé để cô bé buông ra. Julia bước vào trong cửa hàng và tiến về phía họ.
- Bà có biết là Tilly nắm trong tay những phép thuật? Julia hỏi.
- Nếu cần gọi nhân viên bán hàng, thưa cô, tôi sẽ ra hiệu, người phụ nữ đáp, mắt vẫn nhìn cô con gái với những tia hăm dọa.
- Tôi không phải nhân viên bán hàng, tôi là mẹ của nó.
- Gì kia? Người mẹ trong gia đình cao giọng hỏi. Cho đến khi có bằng chứng ngược lại, tôi mới là mẹ!
- Tôi đang nói đến Tilly, con thú bông có vẻ như rất gắn bó với cô con gái nhỏ của bà. Chính tôi đã sinh ra nó. Bà cho phép tôi tặng nó cho cô bé chứ? Tôi buồn khi phải thấy nó một mình đơn độc trong cái tủ kính bày hàng bị chiếu sáng quá mức này. Ánh sáng gay gắt của những bóng đèn chiếu rốt cuộc sẽ làm phai màu bộ lông của nó mà Tilly lại hết sức hãnh diện về bộ lông màu xanh xám của mình. Bà không thể hình dung chúng tôi đã mất bao nhiêu thời gian để tìm ra cho chú ta màu lông ở gáy, cổ, bụng, mõm, những màu sắc đã trả lại cho chú ta nụ cười sau khi nhà của chú ta bị lũ cuốn trôi.
- Tilly của cô sẽ ở lại trong cửa hàng này và con gái tôi sẽ học được cách theo sát mẹ nó trong lúc mẹ con tôi đi dạo phố! Bà mẹ đáp, kéo cánh tay đứa con mạnh đến nỗi cô bé buộc phải buông chân của con thú bông to lớn.
- Tilly sẽ vui thích nếu có một cô bạn, Julia cố nài.
- Cô muốn làm hài lòng một con thú nhồi bông ư? Bà mẹ chất vấn, sững sờ.
- Hôm nay là một ngày hơi đặc biệt một chút. Tilly và tôi sẽ lấy làm hạnh phúc, con gái bà cũng vậy, tôi tin là thế. Chỉ một câu đồng ý để ban tặng ba niềm hạnh phúc, chuyện này cũng đáng để cân nhắc đấy chứ, phải không nào?
- Sao nào, câu trả lời là không! Alice sẽ không nhận được quà và quà từ một người không quen biết lại càng không. Chúc cô buổi tối tốt lành! Bà ta vừa nói vừa đi xa dần.
- Alice xứng đáng chứ; bà sẽ không phải than phiền trong vòng mười năm tới! Julia buột miệng trong lúc cố nén giận.
Người mẹ quay lại và nhìn cô chòng chọc bằng ánh mắt cao ngạo.
- Cô này, cô đã sinh ra một con thú nhồi bông, còn tôi thì sinh ra một đứa trẻ, vậy nên nếu muốn thì cô hãy giữ những bài học cuộc sống lại cho riêng mình!
- Đúng thế, các bé gái thì không giống thú nhồi bông, ta không thể vá tạm những chỗ rách đã gây ra cho chúng!
Người phụ nữ ra khỏi cửa hàng, bực tức. Hai mẹ con đi xa dần trên vỉa hè của Đại lộ số 5 không quay nhìn lại lần nào.
- Xin lỗi nhé, Tilly, Julia nói với con thú bông, tao nghĩ là tao đã cư xử không khôn khéo rồi. Mày biết rõ tao rồi đấy, đó không phải thế mạnh của tao mà. Đừng lo, rồi mày sẽ thấy, tao sẽ tìm được cho mày một gia đình khá khẩm, chỉ cho riêng mày thôi.
Ông giám đốc nãy giờ không bỏ sót chi tiết nào tiến lại gần.
- Rất vui được gặp cô, cô Walsh, đã hơn tháng nay không thấy cô ghé qua.
- Mấy tuần vừa rồi tôi nhiều việc quá.
- Chúng tôi thu được thành công vượt quá mong đợi với tác phẩm của cô, đây là phiên bản thứ mười chúng tôi đặt mua. Bốn ngày bày trong tủ kính và, hấp, chúng bốc hơi ngay tức khắc, viên giám đốc vừa nói chắc vừa đặt con thú bông lại chỗ cũ. Mặt dù phiên bản này đã ở đó từ gần hai tuần nay, nếu tôi nhớ không nhầm. Nhưng với một khoảng thời gian như thế...
- Thời gian chẳng có nghĩa lý gì trong chuyện này cả, Julia đáp. Chú Tilly này là bản gốc, thế nên nó khó tính hơn, nó cần phải tự mình chọn lấy gia đình sẽ tiếp nhận nó.
- Cô Walsh, lần nào ghé qua thăm chúng tôi cô cũng nói vậy, viên giám đốc trả lời, vẻ thích thú.
- Tất cả bọn chúng đều là nguyên bản, Julia vừa khẳng định vừa chào từ biệt ông ta.
Mưa đã tạnh, Julia rời cửa hàng, tiếp tục cuốc bộ về phía Hạ Manhattan và bóng cô dần lẫn vào giữa đám đông.
* * *
Cây cối trên Horatio Street oằn mình dưới sức nặng của những chiếc lá sũng nước. Vào cuối giờ chiều, mặt trời rốt cuộc cũng xuất hiện trở lại, lặn dần xuống mặt sông Hudson River. Một thứ ánh sáng màu tía êm dịu tỏa lan khắp những con phố hẹp của khu West Village. Julia chào ông chủ của nhà hàng Hy Lạp nhỏ nằm đối diện nhà cô; người đàn ông đang bận rộn bày biện ngoài sân hiên đáp lại câu chào của cô và hỏi liệu tối nay cô có muốn đặt trước một bàn không. Julia lịch sự từ chối và hứa ngày mai Chủ nhật sẽ ghé qua dùng bữa trưa.
Cô xoay chìa khóa trong ổ khóa cửa ra vào của khu nhà nhỏ nơi cô sống và leo cầu thang bộ lên tầng hai. Stanley đang ngồi ở bậc thang trên cùng chờ cô.
- Anh làm thế nào mà vào được?
- Zimoure, ông chủ tiệm dưới nhà; ông ấy đang chuyển các thùng hàng xuống tầng hầm, anh đã giúp, bọn anh đã chuyện phiếm về bộ sưu tập giày mới nhất của ông ấy, đơn giản là một kỳ quan. Nhưng thời buổi này ai còn có thể tậu về cho mình những tác phẩm nghệ thuật ấy nhỉ?
- Cứ nhìn đám đông người liên tục ra vào cửa tiệm của ông ấy vào dịp cuối tuần, trên tay đầy những gói hàng, tin em đi, rất nhiều người có thể làm vậy đấy, Julia đáp. Anh cần gì nào? Cô hỏi trong lúc mở cánh cửa dẫn vào căn hộ.
- Không, nhưng em thì tối nay chắc chắn là cần bạn bè rồi.
- Nhìn cái vẻ chó lông xù cụp tai của anh, em tự hỏi không biết ai trong hai ta mới là nạn nhân của nỗi cô đơn đây.
- A, để bảo vệ lòng tự ái của em, anh nhận về mình toàn bộ trách nhiệm vì đã đến đây làm khách không mời!
Julia cởϊ áσ đi mưa ra rồi quẳng lên chiếc ghế bành gần lò sưởi. Căn phòng sực nức mùi thơm của cây đậu tía leo dọc mặt tiền bằng gạch đỏ.
- Nhà em thú vị thật đấy, Stanley thốt lên, gieo mình xuống tràng kỷ.
- Ít ra năm nay em cũng làm được chuyện này, Julia vừa nói vừa mở tủ lạnh.
- Làm được chuyện gì?
- Bố trí lại tầng gác của ngôi nhà cũ kỹ này. Anh uống bia nhé?
- Mất dáng như chơi! Một ly vang đỏ được không?
Julia nhanh chóng dọn hai bộ đồ ăn trên chiếc bàn gỗ; cô đặt lên đó một đĩa pho mát, mở nút chai, đặt đĩa nhạc của Count Basie[1] vào ổ CD và ra hiệu cho Stanley đến ngồi đối diện với mình. Stanley xem nhãn chai rượu vang và huýt gió vẻ thán phục.
[1] William “Count” Basie (1904-1084) nhạc sĩ, nhạc công jazz nổi tiếng người Mỹ (các chú thích đều là của người dịch).
- Một bữa tiệc tối chính cống, Julia vừa đáp trả vừa ngồi vào bàn. Với hai trăm khách mời cùng vài lát bánh cắt, ta hầu như có thể nhắm mắt lại và hình dung đây là bữa tiệc tối sau lễ cưới của em.
- Em muốn khiêu vũ không, em thân mến? Stanley hỏi.
Không đợi Julia trả lời, anh đã kéo cô đứng dậy và dẫn cô vào điệu swing.
- Em sẽ thấy tối nay dẫu sao vẫn cứ là một buổi tiệc, anh tươi cười nói.
Julia gục đầu vào vai anh.
- Không có anh em biết phải làm gì bây giờ, Stanley thân mến?
- Chẳng làm gì hết, nhưng điều này thì anh đã biết từ lâu rồi.
Bản nhạc kết thúc và Stanley quay trở lại ngồi vào bàn.
- Ít ra em cũng đã gọi cho Adam rồi chứ?
Julia đã tận dụng chuyến đi bộ khá tốn thời gian của mình để xin lỗi chồng chưa cưới. Adam hiểu nhu cầu được ở một mình của cô. Bản thân anh đang tự trách mình vì đã cư xử hết sức vụng về trong lễ tang. Mẹ anh, người anh đã trò chuyện cùng khi từ nghĩa trang trở về, đã trách mắng anh về thái độ thiếu tế nhị đến mức ấy. Tối nay, anh sẽ đến căn nhà nghỉ nông thôn của bố mẹ anh để cùng gia đình sum vầy nốt thời gian còn lại của kỳ nghỉ cuối tuần.
- Có những lúc anh đến phải tự hỏi, liệu có phải bố em đã làm một việc tốt khi kéo mọi người đến dự lễ tang ông vào đúng ngày hôm nay không, Stanley vừa nói khẽ vừa rót thêm cho mình một ly rượu.
- Đúng là anh không hề ưa anh ấy!
- Anh chưa từng nói thế!
- Em đã một thân một mình suốt ba năm trời trong cái thành phố có đến hai triệu người độc thân này. Adam vừa ga lăng, rộng lượng, lại vừa ân cần tử tế. Anh ấy chấp nhận khung giờ làm việc phi lý của em. Anh ấy làm hết khả năng để đem lại hạnh phúc cho em, và trên hết, Stanley ạ, anh ấy yêu em. Thế nên, làm ơn đi, hãy khoan dung với anh ấy.
- Nhưng anh có phản đối gì chồng chưa cưới của em đâu nào, cậu ta hoàn hảo! Chỉ là anh muốn thấy trong đời em một người đàn ông thực sự lôi cuốn được em, ngay cả khi anh ta đầy nhược điểm đi chăng nữa, hơn là một kẻ khác chỉ giữ được chân em vì hắn có vài đức tính nào đó.
- Dạy dỗ em thì dễ lắm, thế còn anh, tại sao anh lại một mình?
- Anh không một mình, Julia, anh góa bụa, chuyện đó hoàn toàn khác. Và không phải vì người đàn ông anh yêu mất đi mà người ấy rời xa anh. Em phải thấy Edward vẫn còn đẹp trai đến thế nào trên giường bệnh kia. Căn bệnh không lấy đi được vẻ oai phong của anh ấy. Anh ấy vẫn còn hóm hỉnh cho đến câu nói cuối cùng.
- Câu ấy là gì vậy? Julia hỏi và ấp tay mình lên tay Stanley.
- Mình yêu cậu!
Hai người bạn cứ thế nhìn nhau hồi lâu trong yên lặng. Stanley đứng dậy, mặc lại áo vest rồi hôn lên trán Julia.
- Anh về ngủ đây. Tối nay thì em thắng rồi đấy, anh mới là nạn nhân của cô đơn.
- Đợi đã nào. Những lời cuối cùng này đúng là để nói với anh rằng anh ấy yêu anh hả?
- Chuyện nhỏ ấy mà, Edward mà dối anh thì tiêu đời ngay, Stanley mỉm cười đáp.
* * *
Sáng ra, Julia, ngủ luôn trên tràng kỷ, mở mắt và nhìn thấy cái chăn choàng Stanley đã đắp cho cô. Lát sau, cô tìm thấy một mẩu giấy nhắn dưới cái bát đựng bữa sáng. Cô đọc trên đó: “Dù chúng ta có văng vào mặt nhau những lời độc địa đến mức nào, thì em vẫn cứ là cô bạn tốt nhất của anh, và anh cũng yêu em nữa, Stanley.”