Mật Mã Da Vinci

3/10 trên tổng số 1 lượt đánh giá
Tác Giả: Đề Cử
Tình Trạng: Hoàn Thành
Trong khi đang công tác ở Pari, nhà biểu tượng học của trường Đại học Harvard, Robert Langdon nhận được một cuộc điện thoại khẩn cấp lúc tối muộn. Người quản lý lớn tuổi của bảo tàng Louvre đã bị sát  …
Xem Thêm

Chương 44
Xe Ranger Rover được coi là viên ngọc trai đen Java, xe bốn bánh, hộp truyền động chuẩn, đèn polypropylen cực mạnh, đèn hậu chùm bán cố định, tay lái bên phải.

Langdon mừng là mình không phải lái xe.

Người phục vụ của Teabing, Rémy, theo lệnh chủ, đang làm một việc đầy ấn tượng là điều khiển chiếc xe băng qua cánh đồng tràn ngập ánh trăng phía sau Château Villette. Không bật đèn pha, ông ta đã lái qua một cái gò trống trải và giờ đang xuống một con dốc dài, ngày càng xa điền trang. Có vẻ như ông ta đang hướng tới một khu rừng in bóng lô xô ở đằng xa.

Langdon ngồi ghế hành khách, ôm viên đá đỉnh vòm, quay lại nhìn Teabing và Sophie ngồi ở ghế sau.

"Đầu anh thế nào rồi, Robert?" Sophie hỏi, giọng lo lắng.

Langdon nén đau gượng cười: "Cám ơn, đỡ rồi". Kỳ thực đang đau muốn chết.

Bên cạnh cô, Teabing đưa mắt qua vai nhìn gã thầy tu bị bịt miệng đang nằm trên khoang hành lý chất đống đằng sau hàng ghế dưới. Teabing đặt khẩu súng của gã tu sĩ trên lòng, trông ông giống như bức ảnh cũ chụp một thợ săn safari người Anh đứng bên con mồi vừa hạ được.

"Rất vui về cuộc đến thăm bất ngờ của anh tối nay, Robert", Teabing nói, cười tươi như thể đây là lần đầu tiên sau nhiều năm ông mới có dịp vui vẻ thế.

"Xin lỗi vì đã lôi ngài dính líu vào cuộc này, Leigh".

"Ồ tôi đã chờ đợi cả đời để được vào cuộc này mà". Teabing phóng mắt qua Langdon, nhìn ra ngoài kính chắn gió, về phía cái bóng của một hàng rào dài. Ông vỗ nhẹ vào vai Rémy từ đằng sau. "Hãy nhớ đừng đạp phanh để đèn hậu bật lên. Nếu cần thì dùng phanh khẩn cấp. Tôi muốn vào sâu trong rừng một chút.

Không lí do gì phải liều lĩnh để họ nhìn thấy chúng ta từ nhà".

Rémy cho xe sáp lại chậm như bò và lái qua một khoảng trống trong hàng rào. Khi chiếc Range Rover lắc lư đi vào một con đường mòn lút cỏ, hầu như ngay lập tức những vòm cây trên đầu che khuất hết ánh trăng.

Mình không nhìn thấy bất cứ cái gì! Langdon nghĩ, căng mắt ráng phân biệt những hình thù đằng trước họ. Trời tối đen như mực. Những cành cây cọ vào sườn trái xe, và Rémy phải chỉnh sang hướng khác. Giữ cho tay lái tương đối thẳng, ông ta nhích dần về phía trước khoảng ba mươi mét.

"Làm tốt đấy, Rémy". Teabing nói. "Có lẽ đủ xa rồi, Robert, anh làm ơn ấn hộ cái nút màu xanh ngay dưới lỗ thông hơi.

Thấy không?".

Langdon sờ thấy cái nút và ấn vào đó.

Một làn ánh sáng vàng dịu tỏa ra trên vạt đường phía trước, làm hiện lên những bụi cây thấp rậm rạp ở cả hai bên con đường mòn. Đèn xuyên xương mù. Langdon nhận ra. Loại đèn này cho ánh sáng vừa đủ để rọi đường và lúc này họ đã tiến sâu vào trong rừng đủ để ánh sáng không làm lộ họ.

"Tốt, Rémy", Teabing phụ hoạ thêm một cách hài lòng, "có ánh sáng rồi. Mạng sống của chúng tôi nằm trong tay anh đấy".

"Chúng ta đi đâu bây giờ?" Sophie hỏi.

"Con đường mòn này đi sâu vào rừng khoảng ba kilômét", Teabing nói. "Nó cắt ngang qua điền trang rồi vòng lên phía Bắc. Miễn là chúng ta không vấp phải thác nước hay bất cứ cái cây đổ nào, chúng ta sẽ ra tới mặt đường cao tốc không sứt mẻ".

Không sứt mẻ. Cái đầu của Langdon thì lại bày tỏ sự không đồng tình. Ông nhìn xuống lòng mình, nơi viên đá đỉnh vòm vẫn nằm an toàn trong chiếc hộp gỗ. Hình khảm Hoa Hồng trên nắp trở lại vị trí của nó, và mặc dầu đầu còn mụ mị, Langdon vẫn háo hức muốn gỡ nó ra để xem xét những chữ khắc bên dưới. Ông mở móc cài và đang bắt đầu nâng nắp lên thì Teabing đặt tay lên vai ông từ đằng sau.

"Hãy kiên nhẫn, Robert", Teabing nói. "Đường gập ghềnh và tối chúa cứu ta nếu ta giải được điều gì đó. Nếu anh không nhận ra thứ ngôn ngữ đó trong ánh sáng thì anh cũng không thể làm tốt hơn trong bóng tối. Ta hãy tập trung vào việc thoát khỏi nơi này nguyên vẹn đã, được chứ? Sẽ đến lúc dành cho cái đó rất sớm thôi".

Langdon biết Teabing nói phải. Cật đầu, ông đặt chiếc hộp vào chỗ cũ.

Gã thầy tu ở phía sau giờ đây đang rêи ɾỉ, vật lộn với những dây trói. Bất thình lình, hắn giẫy đạp điên cuồng.

Teabing xoay người lại và chĩa khẩu súng qua ghế ngồi:

Thưa ngài, tôi không thể hiểu ngài còn phàn nàn cái nỗi gì. Ngài đột nhập vào nhà tôi và để lại một vết bầm gớm ghiếc trên đầu người bạn thân của tôi. Tôi hoàn toàn có quyền bắn ngài ngay lúc này và để ngài rữa xác trong khu rừng kia".

Gã thầy tu im lặng.

"Ngài có chắc là chúng ta nên đem hắn theo cùng không?", Langdon hỏi.

"Chắc quá đi chứ?". Teabing thốt lên. "Anh đang bị truy nã vì tội gϊếŧ người, Robert. Tên khốn kiếp này là chiếc vé mở cánh cổng tự do cho anh. Cảnh sát rõ ràng là muốn bắt anh lắm nên mới bám theo anh đến tận nhà tôi".

"Lỗi tại tôi", Sophie nói, "Chiếc xe bọc sắt chắc chắn có thiết bị truyền tín hiệu".

"Vấn đề không phải ở đó", Teabing nói. "Tôi không ngạc nhiên là cảnh sát phát hiện ra anh nhưng tôi thật ngạc nhiên thấy tên hội viên tổ chức Opus Dei này tìm ra anh. Bằng vào tất cả những gì anh nói cho tôi nghe, tôi không thể tưởng tượng nổi làm sao tên này bám được theo anh tới nhà tôi trừ phi hắn có tay trong ở Cảnh sát tư pháp hoặc ở Nhà băng ký thác Zurich".

Langdon suy ngẫm về điều này. Xem ra Bezu Fache chắc chắn đang rất muốn tìm được một kẻ làm bung xung cho những vụ gϊếŧ người tối nay. Và Vernet đã quay lại chống họ khá bất ngờ, mặc dù xét việc Langdon bị kết tội gϊếŧ bốn người, sự thay lòng đổi dạ của tay giám đốc nhà băng dường như có thể hiểu được.

"Tên thầy tu này không hành động một mình đâu, Robert", Teabing nói, "và cho đến khi anh biết được ai đứng sau toàn bộ chuyện này, thì cả anh và cô Sophie vẫn còn đang ở trong vòng nguy hiểm. Nhưng tin tốt lành, bạn thân mến, là bây giờ anh đang ở thế mạnh. Con quái vật đằng sau tôi nắm giữ những thông tin đó, và bất cứ ai đang giật dây hắn chắc ngay giờ đây cũng phải lo lắng".

Rémy đang tăng tốc, thoải mái hơn trên đường mòn. Xe băng qua những vũng nước, leo lên một cái gò nhỏ, và lại bắt đầu đi xuống.

"Robert, anh vui lòng đưa cho tôi điện thoại chứ?" Teabing chỉ vào chiếc bộ đàm trên bảng đồng hồ. Langdon đưa nó ra sau và Teabing bấm số. Ông đợi một lúc rất lâu trước khi nghe thấy tiếng ai đó trả lời: "Richard? Tôi có làm anh thức giấc không? Ồ, tất nhiên là có rồi. Một câu hỏi ngốc nghếch. Tôi xin lỗi. Tôi gặp một rắc rối nhỏ. Tôi cảm thấy hơi bệnh. Rémy và tôi cần về Anh đột xuất để điều trị. Phải, ngay lập tức, thật vậy. Xin lỗi vì báo quá gấp. Anh có thể cho Elizabeth sẵn sàng trong hai mươi phút được không? Tôi biết, hãy cố gắng hết sức.

Hẹn sớm gặp lại". Ông cúp máy.

"Elizabeth?" Langdon thắc mắc.

"Máy bay của tôi. Tôi đã mua nó với giá ngang món tiền chuộc một Nữ hoàng".

Langdon quay cả người lại nhìn ông.

"Cái gì?" Teabing hỏi. "Hai người không thể mong ở lại Pháp với toàn bộ Cảnh sát tư pháp đuổi theo sau. London sẽ an toàn hơn nhiều".

Sophie cũng quay sang Teabing: "Ngài nghĩ chúng tôi nên rời khỏi đất nước à?".

"Các bạn của tôi ơi, tôi có nhiều thế lực ở thế giới văn minh hơn ở đây, tại Pháp. Thêm nữa, người ta tin rằng Chén Thánh ở Anh. Nếu chúng ta mở được viên đá đỉnh vòm, tôi chắc chắn chúng ta sẽ khám phá ra một bản đồ chỉ ra rằng chúng ta đã đi đúng hướng".

"Ngài liều lĩnh quá", Sophie nói, "bởi vì việc giúp đỡ chúng tôi sẽ làm ngài không kết bạn được với cảnh sát Pháp".

Teabing phẩy tay ra vẻ chán ngấy: "Tôi đã xong chuyện với nước Pháp. Tôi đến đây cốt tìm viên đá đỉnh vòm. Bây giờ công việc ấy đã hoàn thành. Sau này dù có dịp thấy lại Château Villette nữa hay không, tôi cũng bất cần".

Giọng Sophie nghe có vẻ không chắc chắn lắm: "Làm thế nào chúng ta có thể qua được an ninh sân bay?".

Teabing cười tủm tỉm: "Tôi bay từ Le Bourget - một phi trường không xa đây. Các bác sĩ Pháp không làm tôi yên tâm cho nên hai tuần một lần, tôi bay theo hướng bắc để về Anh điều trị. Tôi trả tiền để có một số đặc quyền ở cả hai bên. Một khi chúng ta đã ở trên không, các bạn có thể quyết định xem các bạn có muốn để ai đó ở sứ quán Mỹ đến gặp chúng ta hay không!" .

Đột nhiên, Langdon không muốn dây dưa gì với sứ quán. Điều duy nhất ông có thể nghĩ đến lúc này là: viên đá đỉnh vòm, những dòng chữ khắc, và những thứ đó có dẫn đến Chén Thánh hay không. Ông tự hỏi không biết Teabing có đúng khi quyết định về Anh hay không. Phải thừa nhận rằng hầu hết những truyền thuyết hiện đại đều cho Chén Thánh ở nơi nào đó tại Vương quốc Anh. Thậm chí, giờ đây người ta còn tin rằng Đảo Avalon huyền thoại có Chén Thánh của vua Arthur không ở đâu khác ngoài Glastonbury, Anh. Dù Chén Thánh ở đâu, Langdon cũng chưa bao giờ tưởng tượng là có ngày ông sẽ thực sự tìm kiếm nó. Tài liệu Sangreal. Chuyện thật về Jesus, ngôi mộ của Mary Madolene. Đột nhiên ông cảm thấy như đêm nay mình đang sống trong một cõi minh phủ… một cái bong bóng mà ở đó thế giới thực không với tới ông được.

"Thưa ngài?" Rémy nói. "Ngài có thực sự nghĩ đến chuyện về Anh hắn không?".

"Rémy, anh khỏi phải lo!" , Teabing đảm bảo. "Chỉ bởi vì tôi quay trở về vương quốc của Nữ hoàng không có nghĩa là tôi định bắt lưỡi tôi phải nếm xúc xích và khoai tây nghiền nhừ trong phần còn lại của cuộc đời mình. Tôi mong anh sẽ nhập bọn với tôi thường xuyên ở đó. Tôi đang định mua một biệt thự tráng lệ ở Devonshire, và chúng ta sẽ cho chuyển tất cả mọi thứ của anh đến ngay lập tức. Một cuộc phiêu lưu! Rémy. Tôi nói, nó là một cuộc phiêu lưu".

Langdon không khỏi mỉm cười. Trong khi Teabing huyên thuyên về kế hoạch đắc thắng trở về Anh Quốc, Langdon cũng cảm thấy lây niềm phấn hứng của ông.

Lơ đãng nhìn ra ngoài cửa sổ, Langdon quan sát những cánh rừng đang lướt qua, nhợt nhạt một cách ma quái trong ánh sương mù vàng vọt. Chiếc gương chiếu hậu ngoặt vào trong, bị quệt lệch đi bởi những cành cây, và Langdon nhìn thấy hình ảnh phản chiếu Sophie đang ngồi im lặng ở ghế sau. Ông ngắm cô hồi lâu và bỗng thấy trào lên một cảm giác hài lòng bất ngớ.

Bất chấp những rắc rối của ông tối nay, Langdon biết ơn hoàn cảnh đã run rủi cho ông có người bạn đồng hành tốt như vậy. Sau vài phút, như chợt cảm thấy tỉa nhìn của ông, Sophie cúi về phía trước, đặt tay lên vai ông, xoa nhẹ: "Anh ổn chứ?".

"Vâng", Langdon nói, "Cách nào đó.".

Sophie ngổi trở lại trên ghế của mình, và Langdon nhìn thấy một nụ cười lặng lẽ thoáng qua trên môi cô. Ông chợt nhận ra mình cũng đang mỉm cười.

Bị chẹn vào phía sau của chiếc Range Rover, Silas hầu như không thở được, cánh tay bị bẻ quặt ra sau và cột chặt vào mắt cá chân bằng dây và băng dính. Mỗi cú xóc trên đường đều làm đôi vai bị vặn xoắn của hắn đau điếng. Chí ít những người bắt hắn cũng đã tháo chiếc thắt lưng hành xác ra. Không thể hít vào qua mảnh băng dán trên mồm, hắn chỉ có thể thở qua lỗ mũi mà nó lại đang tắc dần bởi bụi bặm của phần chứa hàng hoá phía sau, nơi hắn bị nhét vào. Hắn bắt đầu ho.

"Tôi nghĩ là hắn ta ngạt thở", người tài xế Pháp nói, giọng quan ngại.

Ông già người Anh đã quật Silas bằng cái nạng bấy giờ mới quay lại, cau mày ngó qua thành ghế, lạnh lùng nhìn hắn. "May cho anh, những người Anh chúng tôi nhận định trình độ văn minh của con người bằng vào lòng thương cảm không phải đối với bạn bè mà là đối với kẻ thù". Nói rồi ông với xuống, gỡ chiếc băng dính trên miệng Silas. Bằng một động tác nhanh, ông giật nó ra.

Silas cảm thấy môi mình như vừa bắt lửa, nhưng luồng không khí đang ùa vào phổi hẩn thì quả là do Chúa gửi đến.

"Anh làm việc cho ai?" ông già người Anh hỏi.

"Tôi làm việc cho Chúa", Silas làu bàu, hàm đau buốt vì bị người phụ nữ đá vào.

"Anh thuộc tổ chức Opus Dei", Teabing nói. Đó không phải là một câu hỏi.

"Ông chẳng biết được tôi là ai đâu".

"Tại sao Opus Dei lại muốn có viên đá đỉnh vòm?".

Silas không có ý định trả lời. Viên đá đỉnh vòm là cầu nối với Chén Thánh, và Chén Thánh là chìa khoá để bảo vệ đức tin.

"Tôi làm công việc của Chúa, Đạo đang lâm nguy".

Lúc này, trong chiếc xe Range Rover, vật lộn với những dây trói, Silas sợ mình đã vĩnh viễn không làm tròn bổn phận đối với Thầy Giáo và Giám mục. Hắn không cớ cách nào liên lạc để báo cho họ biết về diễn biến khủng khϊếp này. Những kẻ bắt giữ ta đã có được viên đá đỉnh vòm. Họ sẽ tìm được Chén Thánh trước chúng ta! Trong bóng tối ngột ngạt. Silas cầu nguyện. Hắn để nỗi đau thể xác tiếp lửa cho lời van xin của mình.

Một phép màu, lạy Chúa. Con cần một phép màu. Silas không cách chi biết được từ giờ phút này trở đi, hắn sẽ có một phép màu.

"Robert?" Sophie vẫn đang quan sát Langdon. "Một vẻ gì lạ lùng vừa thoáng hiện trên mặt anh".

Langdon ngoảnh lại nhìn cô, nhận ra hàm mình đang nghiến chặt và tim đang đập dồn. Một ý không thể tin được vừa nảy ra trong đầu ông. Có thật lời giải thích lại có thể đơn giản đến thế không? "Tôi cần dùng điện thoại của cô, Sophie".

"Ngay bây giờ ư?".

"Tôi nghĩ tôi vừa mới phát hiện ra một điều gì đó".

"Cái gì thế?".

"Tôi sẽ nói cho cô nghe trong một phút nữa. Tôi cần điện thoại của cô!".

Sophie có vẻ thận trọng: "Tôi không chắc là Fache có theo dõi các cuộc gọi hay không, nhưng để đề phòng trường hợp ấy, anh chỉ được gọi dưới một phút thôi". Cô đưa điện thoại cho ông.

"Bấm số gọi về Mỹ như thế nào?".

"Anh cần gọi theo phương thức người nhận trả tiền. Dịch vụ của tôi không phủ sóng sang bên kia Đại Tây Dương".

Langdon bấm số không, biết rằng sáu mươi giây tiếp theo có thể trả lời câu hỏi đã làm ông bối rối cả tối nay.

Biên tập viên nhà xuất bản New York Jonas Fankman vửa mới trèo lên giường định ngủ thì chuông điện thoại reo. Ai mà gọi muộn thế, nhỉ! Ông càu nhàu, nhấc máy.

Tiếng người trực tổng đài điện thoại hỏi ông: "Ông có vui lòng trả tiền cho cuộc gọi điện thoại của Robert Langdon không?".

Bối rối, Jonas bật đèn: "Ờ… tất nhiên, đồng ý".

Đường dây đã được nối: "Jonas à?".

"Robert? Cậu đánh thức tôi dậy và bắt tôi trả tiền cho cuộc gọi?".

"Jonas, tha lỗi cho tôi", Langdon nói, "Tôi sẽ nói ngắn gọn. Tôi thực sự cần biết về bản thảo tôi đã đưa cho ông. Ông có…".

"Robert, tôi xin lỗi, tôi biết tôi đã nói sẽ gửi bản biên tập cho cậu tuần này, nhưng tôi bận bù đầu. Thứ hai tuần sau vậy. Tôi hứa đấy".

"Tôi không lo về chuyện đó. Tôi cần biết ông có gửi bản copy lời giới thiệu nào ra ngoài mà không cho tôi biết không?".

Faukman lưỡng lự. Bản thảo mới nhất của Langdon - một khảo sát về lịch sử việc thờ nữ thần - bao gồm vài phần về Mary Magdalene có thể sẽ gây ngạc nhiên lớn. Mặc dầu bản thảo này có tài liệu chứng minh tốt và đã được những người khác đề cập đến nhưng Faukkman không có ý định in những bản đọc trước (1) mà không ít nhất có được sự xác nhận của một số nhà sử học và nghệ thuật học danh tiếng. Jonas đã chọn mười tên tuổi lớn trong giới nghệ thuật trên thế giới và gửi cho họ toàn bộ bản thảo này cùng với một lá thư lịch sự hỏi xem họ có sẵn lòng viết vài lời nhận xét cho bìa sách hay không. Theo kinh nghiệm của Faukman, hầu hết những người này đều chộp lấy cơ hội để thấy tên mình in trên sách.

"Jonas?" Langdon giục. "Ông có gửi bản thảo của tôi ra ngoài, phải không?".

Faukman cau mày, cảm thấy Langdon không vui về điều đó: "Bản thảo vẫn nguyên vẹn, Robert, và tôi chỉ muốn làm cậu ngạc nhiên với một vài lời giới thiệu thật oách thôi!".

Một khoảng khắc im lặng: "Ông có gửi một bản cho ông phụ trách bảo tàng Paris Louvre không?".

"Cậu nghĩ gì vậy? Bản thảo của cậu có mấy lần tham chiếu tới bộ sưu tập Louvre của ông ta, sách của ông ta nằm trong thư mục của cậu, và ông ta có ảnh hướng lớn đối với việc bán sách ở nước ngoài. Gửi cho Saunière là điều quá dễ hiểu?".

Im lặng kéo dài ở đầu dây bên kia: "Ông gửi nó khi nào?".

"Khoảng một tháng trước đây. Tôi cũng nói với ông ta là cậu sắp sang Paris và hai người nên gặp nhau trò chuyện. Ông ta đã gọi hẹn gặp cậu chưa?". Faukman ngừng lại, rụi mắt. "Khoan, chẳng phải là theo kế hoạch, cậu sẽ có mặt ở Paris tuần này sao?".

"Tôi đang ở Paris".

Faukman ngồi thẳng dậy: "Cậu gọi cho tôi từ Paris?".

"Hãy trừ cước cuộc gọi này vào tiền nhuận bút của tôi, Jonas. Ông có nhận được hồi âm gì từ Saunière không? Ông ấy có thích bản thảo đó không?".

"Tôi không biết. Tôi chưa được tin gì tử ông ta".

"Thôi được, đừng có nín thở. Tôi phải đi đây, nhưng cuộc gọi này đã làm sáng tỏ rất nhiều điều. Cám ơn".

"Robert…".

Nhưng Langdon đã cúp máy.

Faukman gác máy, lắc đầu như không thể tin được. Cáibọn tác giả này, ông nghĩ. Kể cả những tay minh mẫn nhất cũng chập cheng.

Trong chiếc Range Rover, Leigh Teabing bật cười ha hả: "Robert, anh nói anh đã viết một bản thảo đi sâu vào một hội kín, và người biên tập đã gửi một bản sao tới chính tổ chức bí mật ấy?".

Langdon gục xuống: "Rõ ràng là thế!".

"Một sự trùng hợp tai ác, anh bạn của tôi!".

Đâu phải là chuyện trùng hợp. Langdon biết thế. Nhờ Jacques Saunière xác nhận một bản thảo viết về thờ cúng nữ thần thì cũng giống như nhờ Tiger Woods (2) đề tựa cho một cuốn sách dạy đánh golf. Hơn nữa, hầu như chắc chắn rằng bất cứ quyển sách nào viết về việc thờ cúng nữ thần đều phải nhắc tới Tu viện Sion.

"Đây là câu hỏi trị giá hàng triệu đôla", Teabing nói, vẫn tủm tỉm cười. "Quan điểm của anh đối với Tu viện Sion thế nào, ủng hộ hay phản đối?".

Langdon có thể nghe thấy rành rõ ý nghĩa thực sự trong câu hỏi của Teabing. Nhiều nhà sử học cũng đã từng đặt câu hỏi tại sao Tu viện Sion vẫn giấu kín tài liệu Sangreal. Một vài người còn cảm thấy thông tin này nên được chia sẻ với thế giới từ lâu rồi. Tôi không chọn quan điểm nào đối với những hành động của Tu viện Sion cả".

"Anh muốn nói là không có lập trường!".

Langdon nhún vai. Teabing rõ ràng đứng về phe muốn công bố các tài liệu này. "Đơn giản là tôi chỉ cung cấp lịch sử của cái hội kín này và miêu tả họ như là một tổ chức hiện đại thờ nữ thần, những người giữ Chén Thánh và bảo vệ các thư tịch cổ".

Sophie nhìn ông: "Anh có nói đến viên đá đỉnh vòm không?".

Langdon nhăn mặt. Ông có nói. Nhiều lần. "Tôi nói về viên đá đỉnh vòm giả định như là một ví dụ về quyết tâm của Tu viện Sion đi đến cùng để bảo vệ thư tịch Sangreal".

Sophie có vẻ ngạc nhiên: "Tôi đoán vì thế mà có đoạn Tái bút. Hãy tìm Robert Langdon".

Langdon cảm thấy thực ra còn có một cái gì khác trong bản thảo của ông kí©h thí©ɧ sự quan tâm của Saunière, nhưng đây là một đề tài mà ông sẽ trao đổi riêng với Sophie.

"Vậy là". Sophie nói, "anh đã nói dối đại uý Fache".

"Cái gì?" Langdon hỏi.

"Anh nói với ông ta rằng anh chưa bao giờ trao đổi thư từ với ông tôi".

"Đúng thế. Người biên tập của tôi đã gửi cho ông cô bản thảo".

"Hãy nghĩ về điều này, Robert. Nếu đại uý Fache không tìm thấy phong bì đựng bản thảo do người biên tập gửi, ông ta sẽ phải kết luận rằng chính anh đã gửi nó". Cô ngừng lời. "Hoặc tệ hơn, rằng anh đã tự tay trao nó và nói dối về điều này".

***

Khi chiếc xe Range Rover đến phi trường Le Bourget, Rémy lái xe tới một nhà để máy bay ở cuối đường bay. Khi họ đến gần, một người đàn ông tóc tai bù xù trong bộ đồ kaki nhàu nát vội vàng bước ra, vẫy tay và kéo cánh cửa kim loại kếch sù mở ra, để lộ một chiếc máy bay phản lực trắng bóng bên trong.

Langdon nhìn chằm chằm vào thân máy bay bóng loáng: "Đó là chiếc Elizabeth?".

Teabing nhoẻn miệng cười: "Đánh bại loại Channel khốn kiếp đấy".

Người đàn ông trong bộ đồ kaki vội vàng bước về phía họ, nheo mắt trong ánh sáng đèn pha: "Gần xong rồi, thưa ngài".

Anh ta nói bằng giọng Anh. "Tôi xin lỗi vì sự chậm trễ này, nhưng ngài gọi đột xuất quá và…!". Anh ngừng bặt khi thấy nhóm người đang xuống xe. Anh ta nhìn Sophie và Langdon, rồi lại nhìn Teabing.

Teabing nói: "Các bạn của tôi và tôi có công việc khẩn cấp ở London, chúng tôi không có thời gian để lãng phí đâu. Xin chuẩn bị xuất phát ngay lập tức". Vừa nói, Teabing vừa lấy khẩu súng ra khỏi xe đưa cho Langdon.

Người phi công trợn tròn mắt khi nhìn thấy khẩu súng. Anh ta bước về phía Teabìng và thì thầm: "Thưa ngài, xin cúi đầu tạ lỗi nhưng máy bay ngoại giao chỉ được phép chở ngài và người phục vụ của ngài. Iôi không thể nhận những vị khách kia".

"Richard", Teabing nói, mỉm cười nồng hậu, "hai ngàn đồng bảng Anh và khẩu súng đã lên đạn này nói rằng anh có thể chở các vị khách của tôi", ông ra hiệu về phía chiếc Range Rover, "Và cả anh bạn bất hạnh ở phía sau xe kia nữa".

Chú thích:

(1) Các nhà xuất bản ở Mỹ thưởng in thử một số bản đọc trước gọi là advance reading copy hay pre-print copy để kiểm tra lần cuối trước khi in chính thức.

(2) Vô địch thế giớỉ về môn golf trong nhiều năm liền, ngưởi Mỹ.

------------------------------------------------------------

Thêm Bình Luận