Chương 1: Ánh lửa trên núi
Xuyên Trung vốn là vùng đất các thế lực binh gia tranh đoạt. Những năm đầu Dân Quốc, là thời hỗn chiến giữa các phe phái ở vùng người Tạng A Bối, quân phiệt Mã Văn Ninh càng đánh càng lớn, dần dần chiếm hẳn mười mấy huyện trong khu Tạng A Bối, trở thành thế lực quân phiệt có tên có tuổi khắp miền Xuyên Trung.
Dân gian đồn rằng, Mã Văn Ninh thạo nhất là đào mồ quật mả. Lúc đầu, vùng người Tạng A Bối có mấy phe phái quân phiệt cát cứ, Mã Văn Ninh sợ các phe phái quân phiệt khác thừa cơ hợp sức đánh lại, nên chỉ lén lút làm trò xấu xa đó. Theo đà biến chuyển của chiến sự, quân của Mã Văn Ninh liên tiếp thắng to, lính tráng được bổ sung với số lượng lớn, vì vậy cần một khối lượng không nhỏ vật tư hậu cần. Mã Văn Ninh không thuộc chính phủ Quốc Dân trung ương, cũng chẳng thuộc phe phái lớn nào, không có cách nào bổ sung hậu cần, đành phải tự giải quyết vấn đề.
Thời gian ấy, Mã Văn Ninh cho đào bới hàng loạt mồ mả, đập phá tháp Phật, chùa chiền, thậm chí còn thành lập hẳn một đội quân cả nghìn người chuyên đi đào trộm mộ, trang bị thuốc nổ mạnh, tìm những nơi có mồ mả, đào một cái hố sâu, chôn thuốc nổ vào đó, dẫu lăng mộ có biện pháp chống trộm cẩn thận đến mấy cũng bị công phá. Mồ mả vừa nổ tung, đội quân trộm mộ liền vơ vét của cải bên trong, còn xương cốt, thi hài thì vứt bỏ. Vào thời ấy, ở vùng A Bối hễ bắt gặp hố sâu vung vãi xương cốt, có thể khẳng định đấy là nơi lính đào mộ của Mã Văn Ninh đã đến.
Một hôm, có vị lạt ma áo quần lam lũ, chân đất, mặt đầy nếp nhăn, xem ra cũng đã ngoài năm mươi tới huyện thành A Bối, đi thẳng đến tư dinh của Mã Văn Ninh. Vị lạt ma đứng ngoài cửa gào thét như người điên, đòi vào trong gặp chủ nhân. Lính gác lôi ông ta ra phố, ông ta lại xông vào. Thấy bên ngoài ồn ào, Mã Văn Ninh cũng chú ý, bèn sai người tra hỏi rõ ngọn ngành, sau đó cho vị lạt ma kia vào phủ.
Vị lạt ma ghé vào tai Mã Văn Ninh nói gì đó, mặt Mã Văn Ninh liền biến sắc, mời ngay ông ta vào phòng kín nói chuyện. Hai người trò chuyện trong phòng kín một ngày một đêm, cơm nước có người đưa đến tận nơi. Về sau, những người biết chuyện nói rằng, vị lạt ma kia đưa đến một tấm bản đồ rách nát, bên trong có ẩn giấu một bí mật lớn.
Mã Văn Ninh cho tiếp đãi vị lạt ma rất trọng hậu, còn cử người canh gác, ngoại trừ hắn ta, không ai được tiếp xúc.
Buổi tối sau hôm vị lạt ma đến, Mã Văn Ninh gặp một cơn ác mộng. Hắn mơ thấy mình bị đặt lên một đài thiên táng rất lớn, xung quanh là các lạt ma ăn vận quái gở, đang rì rầm tụng kinh siêu độ cho hắn. Dù ý thức rất rõ mình còn sống, nhưng tay chân hắn ta lại bị xích sắt trói chặt, gần đài thiên táng bập bùng một đống lửa, trên trời rền rĩ tiếng xám kêu thê thảm, ai nghe cũng phải rùng mình. Mã Văn Ninh ra sức giãy giụa, có điều sợi xích to bằng cổ tay, khiến hắn không sao động cựa được.
Đang lúc tuyệt vọng, hắn phát hiện một vị lạt ma đang cúi đầu tụng kinh bỗng ngước lên nhìn mình, liền đưa mắt nhìn lại, mồ hôi lạnh lập tức túa ra khắp người, không tin nổi vào mắt mình nữa, lạt ma ấy không ngờ lại có bộ mặt chim.
Mã Văn Ninh sợ hãi choàng tỉnh. Hắn lập tức đi tìm vị lạt ma kia nhờ giải mộng, nhưng lạt ma nghe xong chỉ cười, không nói gì.
Tuy ham mê chuyện đào trộm mồ mả tuyệt tử tuyệt tôn, nhưng Mã Văn Ninh lại vô cùng kính nể quỷ thần. Hơn nữa, hiện giờ đương lúc các phe phái quân phiệt hỗn chiến, dù Mã Văn Ninh đã ngồi vững ở vùng Tạng A Bối, nhưng chẳng ai dám chắc đến ngày nào đó hắn không bị tiêu diệt.
Hôm sau Mã Văn Ninh cho yết thị, tìm người tài và lạt ma khắp các chùa chiền giúp hắn giải mộng. Cứ tốp này đến lại tốp khác đi, tất cả đều đưa ra những lý do vô cùng kỳ quái, nhưng chẳng có gì đáng tin hết.
Ít lâu sau, lính đào mộ theo bản đồ vị lạt ma kia cung cấp, tìm thấy ở khu người Tạng phía Tây một nơi giống hệt trong giấc mơ của Mã Văn Ninh, được tin, hắn lập tức cùng đội vệ binh đến đấy xem thử.
Đến nơi, Mã Văn Ninh thấy đài thiên táng được bảo tồn rất hoàn hảo, quang cảnh đúng như trong mơ, nhưng kỳ lạ là, mấy trăm dặm quanh đấy không một bóng người, ngay cả động vật cùng chỉ thấy lác đác. Hắn lệnh cho quân lính lùng sục khắp phạm vi trăm dặm xung quanh mà không sao tìm thấy người có bộ mặt chim. Từ ngày đến đó, lòng Mã Văn Ninh càng thêm thấp thỏm bất an, luôn nghi ngờ có người mưu hại, đi ngủ cũng mặc nguyên quần áo.
Thấy đám lính tráng chẳng tìm được thứ gì giá trị, hắn ta đùng đùng nổi giận, lập tức điều thêm quân đến, cho đào sâu ba trượng trong phạm vi một cây số vuông.
Những tưởng việc đào bới chỉ là cơn giận nhất thời của Mã Văn Ninh, nào ngờ lại đào được một ngôi mộ cổ.
Thật ra đấy không phải mộ, mà chỉ là một hang động, bên trong đặt một cỗ quan tài bằng đá dài chín mét, rộng khoảng ba mét. Quân lính của Mã Văn Ninh loay hoay toát mồ hôi hột mới chuyển được cỗ quan tài đó về A Bối, đưa vào trong phủ, sai lính canh gác cẩn thận.
Quan tài đá về tới nơi, Mã Văn Ninh sai người mở ra trước mặt mình, không ngờ nắp quan tài đậy rất chặt, không sao nạy ra nổi. Đám lính đào trộm mộ tìm đủ mọi cách mà nắp quan tài vẫn không xê dịch mảy may. Mã Văn Ninh lại cho tìm người tài khắp nơi, nhưng chẳng tìm được ai cả.
Đương lúc bế tắc, có người đề nghị Mã Văn Ninh gọi vị lạt ma kia đến, biết đâu ông ta có thế nói rõ lai lịch cỗ quan tài này. Chẳng ngờ, ông ta vừa bước vào cửa, trông thấy cỗ quan tài đá kia, liền tái mặt cắm đầu chạy ra ngoài, bọn lính đứng đấy không thể nào lôi lại được.
Hành động của lạt ma khiến Mã Văn Ninh giật thót mình, bèn vặn hỏi nguyên do. Lạt ma quỳ xuống báy lạy Mã Văn Ninh, khẩn khoản rằng ông ta không dám ở lại nữa, bởi đây là nơi linh hồn Thất Sát Huynh Phật cư ngụ, ai đυ.ng đến cỗ quan tài này sẽ không sống được quá mười ngày.
Thấy sự việc kỳ lạ khó hiểu, lại nghe vị lạt ma nói vậy, Mã Văn Ninh sợ mất mật. Xem ra, ngoài vị lạt ma này không còn ai biết nguồn gốc của cỗ quan tài đá nữa, thậm chí lạt ma cũng chỉ cho hắn tấm bản đồ kỳ lạ mô tả nơi cất giữ báu vật chứ không nói thêm gì khác, kể cả lai lịch xuất thân. Mã Văn Ninh một lòng muốn giữ vị lạt ma trong phủ của mình, bởi lúc này chỉ mình ông ta am hiểu về cỗ quan tài đá kia, nhất định không thể để ông ta đi được.
Vả lại, đám lính của Mã Văn Ninh có không biết bao nhiêu người sờ vào cỗ quan tài đá kia rồi, cả hắn cũng chẳng ngoại lệ, nếu vị lạt ma kia nói đúng, lẽ nào tất cả bọn họ đều không sống nổi quá mười ngày hay sao?
Lạt ma khóc lóc cầu xin được đi nhưng Mã Văn Ninh kiên quyết không chịu, ra lệnh cắt đứt gân chân ông ta, nhốt vào nơi để quan tài đá, bắt ông ta nội trong ba ngày phải mở được nắp quan tài, nếu không sẽ đem ra xử bắn.
Sáng hôm sau Mã Văn Ninh sai người mở cửa xem lạt ma ra sao, nào ngờ trong phòng trống trơn, không thấy người cũng chẳng thấy ma. Tối hôm trước Mã Văn Ninh còn cho lính canh gác, có thể nói là mấy tầng phòng ngự, cả khuôn viên đèn đuốc sáng trưng, lạt ma kia dù mọc cánh cũng không bay ra nổi, vậy thì người đi đâu mất?
Những người có mặt tại đó đều đơ ra, chẳng ai hiểu đầu cua tai nheo gì, về sau có người nói, nhất định vị lạt ma kia đã chui vào quan tài.
Mã Văn Ninh bất đắc dĩ đành đồng ý với đại đội trưởng đại đội cảnh vệ. Đầu tiên đào một cái hố, đặt hai phần ba quan tài xuống đó, chỉ để lộ phần nắp, rồi dùng thuốc nổ cho nổ tung nắp quan tài, như vậy có thể mở đưọc mà không làm hư hại những thứ bên trong.
Quả nhiên chiêu này rất diệu, nắp quan tài vỡ tung, nhưng phần chôn sâu dưới đất vẫn còn nguyên vẹn.
Mã Văn Ninh đến xem, giật mình thấy trong cỗ quan tài đá lớn kia ngoài những mảnh thi thể thì không có thứ gì khác. Thi thể trong quan tài đã nát bấy, không thể nhận rõ khuôn mặt người chết, nhưng hắn nhận ra những mảnh vải vương vãi kia chính là áo quần của vị lạt ma kia.