Đến ngày thứ ba tôi gần như ngã quỵ, cả người bơ phờ, tay chân run rẩy không còn sức giơ lên. Bên tai vẳng vặng nghe tiếng thuyết pháp phật đạo, âm vang tựa như tiếng chuông đồng, vang vọng từ nơi gần nơi xa thấm đậm vào lòng người.
Những lúc tôi mệt mỏi muốn buông xuôi sự kiên trì thì ngài Đà La đã nói rằng: Nghe phật thuyết giảng sẽ tẩy sạch mọi phiền muộn nặng trĩu trong lòng, trả lại sự sạch sẽ thanh khiết không lo không buồn.
Tôi hỏi thế nào là phiền muộn nặng trĩu? và cái gì gọi là không lo không buồn? Ngài Đà La không giải thích cho tôi nghe, ngài chỉ nói một câu mơ hồ thế này:
"Tự mình trải nghiệm sẽ tự biết."
Tôi ngẫm và nghĩ rất lâu, sau cùng cũng hiểu lời ngài đã truyền đạt. Ngài nói rằng chính tôi hãy tự mình trải nghiệm rồi sẽ hiểu những điều khó lý giải ấy, tôi hiểu nhưng không biết làm sao. Nhớ lại lời ngài từng nói tôi không khỏi thở dài, người trần có buồn có oán có than, còn tôi, một đóa hoa tiên sinh trưởng tại đầm sen, từ lúc biết đi biết nói có hiểu gì là tình cảm của người đâu?
Tôi biết vui là gì nhưng không biết thế nào gọi là buồn. Trăm năm ngàn năm, tôi chỉ bầu bạn với mỗi ngài Đà La, ngài vừa là bạn vừa là thầy cũng là người thân của tôi. Những lời ngài nói tuy rằng khi nghe thật khó hiểu, nhưng tôi vẫn gắng học hỏi để ngộ ra ý ngài muốn truyền đạt. Tôi nghĩ chỉ cần kiên trì, một ngày nào đó tôi sẽ hiểu ra những lời ngài Đà La đã nói.
...
Những tia nắng vàng lùa qua kẽ lá xanh, rọi xuống đầm sen mênh mông vẽ ra một mảng vàng lượm trên mặt nước trong veo.
Tôi lim dim mở mắt ra thấy tòa sen vàng của ngài Đà La trống không, bên tai thì im ắng tĩnh lặng cho thấy hội thuyết pháp đã kết thúc. Vội vàng nhìn xung quanh một vòng muốn tìm kiếm bóng dáng của ngài Đà La rồi tôi thấy ngài đang đứng gần bên bờ hồ nuôi cá chép vàng, vì khoảng cách xa, ngồi từ đây tôi chỉ thấy bóng lưng mờ mờ của ngài.
Tôi khẽ gọi: "Ngài Đà La ơi."
Ngài tựa hồ như không nghe thấy vẫn cứ im lặng dõi mắt nhìn vùng trời xa xăm. Ngài không để ý đến tôi, tôi liền nức nở kêu lớn hơn:
"Ngài Đà La ơi, chân con đau."
Ngài Đà La cuối cùng cũng có phản ứng, quay người lại đi về phía tôi.
Tôi cười, gắng nhịn đau mà đung đưa hai chân.
"Vừa mỏi vừa nhức đau ơi là đau." Tôi chỉ chỉ đôi chân, ngước mắt nhìn ngài rồi nói.
Ngài Đà La nhìn tôi vẫn không nói gì, rồi bỗng người đưa lưng về phía tôi. Tôi híp mắt cười, theo thói quen giơ tay ra ôm lấy cổ ngài.
Đoạn đường lênh thênh ngài Đà La cõng tôi đi tưởng chừng là ngắn nhưng thật ra lại dài vô tận. Đi qua gốc cây bồ đề, đến dòng sông thì dừng chân lại đợi thuyền sang đón, cứ thế vượt qua ngọn đồi lớn rồi đến ngọn đồi nhỏ.
Hương sen từ trên tóc ngài Đà La tỏ ra đốt nóng chóp mũi của tôi, liu hiu như ru tôi vào giấc ngủ say. Lim dim nhìn từng hàng cây xanh đong đưa lướt qua người, tôi ngáp một cái rồi hỏi:
"Chúng ta đi đâu vậy ạ?"
"Làng Đài Vàng."
Đài Vàng - Ngôi làng nhỏ có trồng rất nhiều hàng cây đào vàng, còn có cá vàng sen vàng, nhà gạch ngói vàng và những người mặc áo cà sa màu vàng. Tôi từng đi đến đó một lần cùng với ngài Đà La, không nhớ rõ tới đó để làm gì chỉ biết khi trở về tôi vẫn còn khắc khoải mãi hình ảnh ánh vàng bao phủ cả ngôi làng và những con người sống ở nơi đấy.
Một vùng đất chìm ngập trong biển vàng lấp lánh...
Làng Đài Vàng nằm ngay trên dãy đồi phẳng lặng ở hướng Nam, quanh rẽ các lối đi mọc đầy những đốm cây gai nhọn đen sì chắn ngang. Lúc ngài Đa La đi tới, những đốm gai vốn chắn đường bỗng nhúc nhích lùi sang bên, chừa ra một lối rẽ quạnh hiu gập ghềnh dẫn đến hướng đi sâu vào trong. Càng đi sâu vào trong lối rẽ, tiếng gió thổi gần bên tai càng mạnh hơn. Tôi khó chịu bịt tai lại, vùi cả gương mặt sâu vào lớp áo ấm áp ngài Đà La đang mặc, chỉ khi làm vậy tôi mới dễ chịu và bớt lo lắng.
Bỗng tôi nghe thấy tiếng cười giòn giã vọng tới rất gần. Tôi giương mắt lên nhìn, thấy một vùng trời bao la ngập người đi qua lại trên con đường dài. Ngài Đà La cõng tôi đi qua những người đó, một lần nhìn qua họ cũng chưa từng, khi đã cách những người đó một đoạn đường khá xa tôi có ngoái đầu lại nhìn họ. Những chiếc áo cà sa rộng màu vàng như nhau rồi đôi chân ai cũng để trần giẫm nhẹ lên đất cỏ vàng. Tôi để ý trong tay họ đều sở hữu món đồ riêng biệt, người thì cầm bát tròn vàng, người lại vác bình ngọc nặng trĩu trên vai.
Mỗi lần họ rảo bước đi là lạ kỳ ở chỗ không đυ.ng vào tay áo bay bổng của bất cứ người qua đường nào, tựa như dù họ có đi nhanh đến cỡ nào cũng sẽ không va vào người khác. Có rất nhiều người đi lướt qua chúng tôi, giữa đám đông ngập trong màu vàng thì y phục màu trắng ngài Đà La đang mặc và bộ đồ màu cánh sen trên người tôi trở nên thật nổi bật chung quanh.
Tôi tựa cằm lên vai ngài Đà La, nhỏ giọng hỏi:
"Ngài Đà La muốn tìm ai sao ạ?"
Tôi nghe thấy ngài trả lời:
"Ông Phủ Hà Ma sống trong ngôi nhà gỗ vàng."
Tôi dáo dác nhìn xung quanh, đâu đâu cũng thấy những ngôi nhà đá gỗ vàng giống như đút. Tôi không nhịn được bèn hỏi:
"Ngài Đà La còn nhớ đường đến nhà của cái ông tên Lạt Ma gì đó không?"
Tôi cúi thấp đầu nghiêng mặt nhìn một bên sườn má của ngài, thấy ngài Đà La im lặng nhìn đoạn đường phía trước và không chịu nói tiếng nào đáp lại tôi. Ánh rạng chiều lặn hụt mất sau dãy đồi cao, hai bên đường từ sớm đã vắng bóng người không còn ai, chỉ thừa mỗi tiếng dấy kêu của ve con vẫn đâu đó quanh đây.
Trán tôi túa mồ hôi ngay sau lưng cũng vậy, tuy rằng tôi được cõng trên lưng nhưng cái thấm mệt chẳng thể thuyên bớt khi cứ đi mãi chẳng dừng.
"Ngài Đà La để con xuống đi."
Ngài Đà La khom người để tôi trèo xuống, khi đôi chân chạm xuống đất, cái nhức nhừ như đeo trì sắt nặng trên cổ chân vẫn chưa thể hết đau, nhưng ít nhất tôi đã thấy khá hơn một chút.
Ngài Đà La cầm tay tôi dắt đi, lần nữa lại tiếp tục thả bước trên đoạn đường chẳng biết điểm dừng là đâu.
"Ngài Đà La ơi, ngài cõng con đi." Chân tôi như sắp gãy đến nơi, không còn sức bước tiếp nữa.
Ngài Đà Là ngoảnh lại nhìn tôi, im lặng khom người như mọi khi để tôi nằm lên lưng ngài. Lần nữa đi tiếp, khi trời đã ngã về đêm, cây lá vàng va nhau xào xạc, ve kêu ình ỏi.
Tôi khẽ nói: "Ngài Đà La ơi, hay ngài để con xuống đi."
Vẫn như cũ nắm tay ngài Đà La bước đi, sau đó lại thêm một đoạn đường tua qua.
Đôi chân lại nhức mỏi, tôi thở gấp nói: "Ngài Đà La ơi, ngài cõng con đi."
...
Tôi buồn bực ngồi thừ trên đất, nói gì cũng không chịu đi tiếp.
"Con muốn về đầm sen, con không đi nữa đâu."
Tôi ngước lên nhìn vào ánh mắt của ngài Đà La, kiên quyết lắc đầu. Ngài Đà La không nói lời nào xoay người đi tiếp...
Tôi bặm môi, dõi mắt theo bóng lưng ngài càng lúc càng xa, tôi gắng lết đôi chân tê mỏi đuổi theo ngài...
Ngài Đà La thương tôi lắm nhưng cũng đôi khi ngài hay mặc kệ tôi...