Chương 17: Kiếp này

Đầu xuân, vạn vật như khoác lên mình tấm áo mới.

Trên hào nước vẫn có băng vỡ đang trôi. Các con hào này hợp thành một dòng rồi đổ vào sông Kỳ ở Khương Trang, cách Vọng Đô không xa, kéo dài hàng trăm dặm.

Vào buổi sáng, khi khói bếp đang bay phảng phất, có một đội quân men theo dòng sông, đi về hướng Vọng Đô.

Hộ vệ tùy tùng trang bị đầy đủ vũ khí, bảo vệ cỗ xe ngựa trông rất bình thường ở giữa.

Bên trong chiếc xe ngựa lắc lư, Tạ Trùng Tự từ từ tỉnh lại.

Trái tim nàng nhói lên, cả người đau đớn như bị xé rách thành nhiều mảnh. Nàng ngước đầu nhìn bốn phía, không giữ được thăng bằng lảo đảo ngã lên tấm thảm mềm, tay áo vô tình làm đổ cốc trà trên chiếc bàn nhỏ.

Nó rơi xuống lăn tới cạnh tay nàng, phát ra tiếng động không nhỏ. Ở bên ngoài, thủ lĩnh của nhóm hộ vệ lập tức cảnh giác, thúc ngực tiến gần, hỏi: “Điện hạ, có chuyện gì sao?”

Vị thủ lĩnh này họ Nhan tên Thư, là một vị tướng quân nhị phẩm, dáng người cao to, giọng nói thô lỗ, vừa nghe hắn mở miệng, Tạ Trùng Tự đã thấy tai phải như ù đi, đầu đau nhức dữ dội hơn.

Nàng không còn sức mà trả lời.

Tâm trí của nàng dừng lại ở hội săn mùa thu, những lá cờ bay phất phới, Tuyên Giác toàn thân đầy máu ôm lấy nàng trong ngực. Cái ôm của chàng ấm áp, nhưng cũng rất lạnh lẽo.

Đau quá…

Nàng chưa chết mà được cứu rồi sao? Nàng đang bị đưa tới đâu đây?

“Điện hạ???” Nhan Thư không thấy ai trả lời, trong lòng sốt ruột.

Lần này, hắn nhận nhiệm vụ đón Nhĩ Ngọc điện hạ từ quỷ cốc Nam Minh trở lại Vọng Đô. Tiểu điện hạ vừa mới khỏi bệnh, vậy nên đoàn người bọn họ đi rất chậm.

Từ đông chí tới đầu xuân, đã hơn một tháng trôi qua, họ mới sắp sửa tới kinh thành.

Chặng đường cuối cùng, hi vọng sẽ không xảy ra điều gì bất trắc. Hai tai Tạ Trùng Tự ù đi, không nghe rõ hai chữ “điện hạ” mà hắn nói, nàng cắn chặt răng đập vỡ cốc sứ trong tay, cầm mảnh vỡ lên chuẩn bị tấn công kẻ địch, hoặc tự đâm vào mình.

Nhan Thư gọi ba tiếng, trong xe vẫn lặng im như tờ, hắn lo lắng hạ lệnh: “Dừng xe! Mau!”, rồi kìm chặt dây cương xuống ngựa, đi tới trước chiếc xe ngựa đã đứng im, gõ lên khung xe, cất tiếng: “Điện hạ? Người vẫn ổn chứ, vi thần thất lễ”.

Nói rồi, giơ tay vén rèm ra.

Trong xe ngựa tối tăm lập tức sáng lên, ánh mặt trời ngày xuân chiếu lên người thiếu nữ đang nằm rạp dưới đất.

Nàng mặc một chiếc váy xanh ngọc thêu hình chim muông, tóc búi đơn giản, để lộ nửa cần cổ trắng nõn thon dài, nước da trắng như ngọc mỡ dê cùng thứ chất lỏng màu đỏ tươi đang từ từ chảy ra.

Nàng nắm quá chặt, mảnh sứ vỡ cứa vào lòng bàn tay, máu tươi từ vết cắt cứ thế tuôn trào.

Ánh sáng chói mắt khiến toàn thân Tạ Trùng Tự sững lại, nàng chịu đựng cơn đau, vươn người cầm mảnh vỡ sắc bén đâm về phía mắt của Nhan Thư.

Không cần biết là ai, cứ tấn công trước đã!

Dù sao Tạ Trùng Tự cũng đã một lòng muốn chết, ra tay không biết nặng nhẹ. Nhan Thư sững sờ, suýt chút nữa thì tóm lấy tay nàng quặt ngược lại theo bản năng, nhưng bỗng nhớ ra, vị này là công chúa điện hạ lá ngọc cành vàng, hắn không được phép làm nàng bị thương.

Nhan Thư lập tức né người tránh, rồi đánh một lực vừa phải lên huyệt đạo trên cánh tay Tạ Trùng Tự.

Tay Tạ Trùng Tự lập tức tê rần rồi mềm nhũn ra, mảnh sứ vỡ rơi xuống.

Một chuỗi các hành động này như hút cạn hết sức lực trên tứ chi nàng. Cơ thể toát mồ hôi lạnh, cuối cùng nàng không khống chế được nữa, hai mắt tối đi, rơi vào hôn mê.

Nhan Thư hoảng hốt đón lấy nàng, vô cùng sợ hãi kêu lên: “Điện hạ! Mau gọi y nữ!! Chuẩn bị cả vải sạch và thuốc cầm máu nữa, mau lên!”

Khi Tạ Trùng Tự tỉnh lại lần nữa, trời đã hoàng hôn.

Nàng nằm trên chiếc giường êm ái, đây giống như phòng ngủ của một gia đình bình thường, trong quang cảnh bừa bộn phảng phất mùi khói lửa rất dễ chịu. Ánh mặt trời còn sót lại cuối ngày xuyên qua ô cửa sổ chiếu lên người nàng. Mùi thơm của thức ăn phả tới, Tạ Trùng Tự lắc đầu cho tỉnh táo, thầm nghĩ: “Đây là đâu?”

Cơn đau xé tim gan đã qua đi, cơ thể thậm chí còn cảm thấy khoan khoái, nàng bất chợt cúi xuống nhìn vào lòng bàn tay mình.

Bàn tay phải đã được băng bó cẩn thận. Nàng đưa lên mũi ngửi, có mùi thuốc.

Bỗng, Tạ Trùng Tự nhìn sang tay trái.

Nàng đã nhìn tay mình đến cả trăm ngàn lần nên đương nhiên vô cùng quen thuộc. Nhưng lúc này đây, Tạ Trùng Tự cảm thấy có gì đó không đúng, bàn tay mình hình như bé đi đôi chút, vết chai trên ngón tay và trong lòng bàn tay cũng tiêu tan.

Sắc mặt nàng khẽ biến đổi, xoay người xuống người, đi tới trước gương đồng bày trí trong phòng.

Trong gương, thiếu nữ có cánh môi trắng bệch, nhưng sắc mặt nhìn không quá ốm yếu, bởi vì dung mạo nàng vốn tuyệt sắc, búi tóc cao cao, quai hàm uốn lượn, tự chúng đã tô điểm thêm vẻ tươi tắn cho nàng.

Tạ Trùng Tự bỗng chốc sững sờ.

Đây giống như một giấc mộng, như hoa trong tranh, trăng dưới nước. Đây không phải nàng nhưng cũng lại là nàng, là nàng của mười mấy năm trước, trên đầu còn để kiểu tóc khi chưa cập kê.

Nàng hít sâu một hơi, rảo bước tới cửa rồi đưa tay mở ra. Bên ngoài là một đình viện không lớn không nhỏ, có vài đội thị vệ đang làm nhiệm vụ canh gác, thấy Tạ Trùng Tự, bọn họ cúi người hành lễ: “Điện hạ”.

Tạ Trùng Tự lắc đầu cho tỉnh táo, một cảm giác không chân thực tuôn trào trong tim nàng. Khi Nhan Thư nhận được tin báo, vội vã chạy tới, cảm giác này tăng lên tới đỉnh điểm.

Nhan Thư là tướng quân thuộc quân đội của Thích gia, tử trận trên sa trường vào năm Thái Nguyên thứ sáu, phụ hoàng đau buồn khôn nguôi, người còn tự tay viết điếu văn cho hắn.

Tạ Trùng Tự cũng tham dự tang lễ ngày đó. Nhưng sao lúc này, người đáng lẽ đã chết kia lại có thể đứng trước mặt nàng hành lễ? Nàng vô thức lùi lại một bước.

Theo lí mà nói, Tạ Trùng Tự thần trí rối loạn tấn công hắn trước, hắn chỉ tự vệ, cũng chưa làm nàng bị thương, nàng bị hôn mê cũng là do bản thân nàng. Nhưng Nhan Thư vẫn áy náy, nói: “Thần lỗ mãng, ra tay khiến điện hạ bị thương, mong người thứ tội. Điện hạ cảm thấy trong người đỡ hơn chưa?”

Tạ Trùng Tự im lặng hồi lâu, trong lòng nàng dậy sóng, thì thầm cất tiếng hỏi: “Không sao, Nhan tướng quân. Là bản cung mơ thấy ác mộng, không liên quan tới ngươi. Chúng ta đang ở đâu?”

“Đây là một nông hộ ở Khương Trang” Nhan Thư cất tiếng giải thích, “điện hạ hôn mê mãi không tỉnh, đoàn xe cũng không thể đi tiếp, y nữ tùy tùng sai vi thần tìm một hộ dân, để người nghỉ ngơi”.

Xa xa thấp thoáng trông thấy thành lũy cao sừng sững, cờ xí của những con thuyền vận chuyển hàng hóa trên con sông hộ thành đang bay phất phới, đây vẫn là thế giới bận rộn của người phàm trần.

Nhan Thư nói tiếp: “Vọng Đô chỉ còn cách đây hơn năm dặm nữa, rất gần, sáng sớm mai chúng ta xuất phát, trước buổi trưa là có thể tới nơi rồi. Chắc điện hạ vẫn thấy mệt, chi bằng người hãy đi nghỉ đi. Thần và chủ nhà này đã bàn bạc xong…”

Tạ Trùng Tự thu lại ánh mắt đang nhìn về phía xa xăm, đợi Nhan Thư nói xong, mới cất tiếng hỏi: “Hôm nay là ngày nào? Từ trong cốc ra tới đây, hơn một tháng rồi nhỉ?”

Nhan Thư gật đầu: “Vâng, hôm nay là mười bốn tháng giêng, đã một tháng rưỡi rồi”.

Tạ Trùng Tự bấm đốt ngón tay rồi nói: “Năm Thái Nguyên thứ ba, mười bốn tháng giêng, cũng sắp hết tết rồi”.

“À đúng rồi! Bảo mẫu của gia đình này vừa đem bánh bò và bánh đậu xanh tới cho chúng ta”. Nhan Thư cảm thán, “nếu điện hạ đã ra đây, vậy thì cũng nếm thử đi, tuy không đẹp mắt bằng bánh trong kinh thành, nhưng mùi vị cũng rất đặc sắc”.

Nhan Thư không có phản ứng khác thường khi nghe tới “năm Thái Nguyên thứ ba”, Tạ Trùng Tự cuối cùng cũng dám khẳng định, nàng chắc hẳn… đã trở lại về quá khứ.

Trở về năm mười lăm tuổi đó, nàng vừa từ quỷ cốc về kinh đô.

Ngày đó, là mười lăm tháng giêng, tết Nguyên Tiêu. Phụ hoàng nàng bỗng ngẫu hứng, muốn vị công chúa là nàng được vẻ vang, áp chế quyền thế của thị tộc, người đã sắp xếp một đoàn xa giá hùng hậu, từ Cửu Hợp Môn phía nam, men theo con đường Chu Tước đi thẳng về phía bắc, tiến vào hoàng cung.

Hoàng đế khai quốc của Đại Tề tay trắng dựng nước, mượn thế lực của không ít thị tộc phương nam, ngày nay chúng đã rất lớn mạnh, khó lòng kiểm soát. Hiện tại, triều đình gần như đã ngửa một nửa bài với chúng.

Phần bài còn sót lại là nạp nữ tử của thị tộc vào cung, hoặc để quan lại liên hôn với chúng. Nói đâu xa, vị Liên tần khá được sủng ái kia chẳng phải xuất thân từ Tần Thị, thị tộc nổi tiếng Giang Nam ư.

Nhưng kiếp trước nàng ta và Tạ Trùng Tự rất thù địch nhau.

Phụ hoàng ban cho nàng vinh sủng tới nhường ấy, đương nhiên cũng khiến nàng trở thành mục tiêu công kích.

Xa giá của công chúa chạy trên phố Chu Tước ngày đó, chuông bạc lanh lảnh, mành lụa buông lơi, hai cánh quạt như hai cánh chim, bốn khung xe mở đường. Xa hoa, huênh hoang tới mức khiến người ta ghét bỏ.

Tạ Trùng Tự quyết định biến mọi chuyện trở nên đơn giản hơn, sau khi dùng xong bữa tối, nàng đắn đo mở miệng: “Nhan tướng quân, có lẽ do dạo này trời nổi gió lạnh, đầu rất đau, bản cung muốn nghỉ ngơi thêm, ngày kia mới khởi hành, có được không?”

Nhan Thư lúng túng: “Sáng nay, vi thần nhận được lệnh, bệ hạ muốn muộn nhất tối mai chúng ta tới Vọng Đô”.

Hắn kìm giọng xuống: “Bệ hạ muốn gây bất ngờ cho người! Lễ bộ có lẽ đã sắp xếp xong xuôi rồi!”

Tạ Trùng Tự thông tỏ, gật đầu nói: “Vậy thì quả thực không nên thay đổi hành trình”.

Trước khi đi ngủ, nàng dập tắt lò sưởi, mở toang cửa sổ, trên người chỉ mặc một bộ quần áo mỏng manh, vừa ngắm trăng tròn trên bầu trời vừa hứng gió lạnh, cuối cùng cũng hắt hơi như mong đợi, nàng hài lòng quay trở lại nằm xuống giường.

Ngày hôm sau, y nữ tới bắt mạch kiểm tra lại, kinh ngạc phát hiện… tiểu điện hạ sốt cao!

Cả y nữ lẫn Nhan Thư đều như kiến bò trên chảo lửa, Nhan Thư lập tức sai người đi xin chỉ thị của hoàng thượng, khi nhận được lệnh “tự sắp xếp hành trình, đặt sức khỏe của công chúa lên hàng đầu” hắn mới thở phào.

Tấm rèm dày trong phòng ngủ được vén lên, gió bắc lạnh giá lại lùa vào phòng.

Y nữ chẩn mạch cho Tạ Trùng Tự bưng ly nước nóng bước vào. Ở Giang Nam, nàng nổi tiếng là thần y có bàn tay vàng, đi theo đội quân này cũng đã gần nửa năm, nhưng vẫn khoanh tay bó gối trước bệnh tình của tiểu điện hạ.

Người trong hoàng thất đều nói, Nhĩ Ngọc điện hạ tới Hi Minh Cốc, đạo quán đầu tiên của Đại Tề để cầu phúc cho giang sơn. Nhưng trên thực tế, năm đó tiên hoàng hậu gặp thích khách, vị tiểu điện hạ này cũng bị trúng hàn độc, không thể không đưa tới quỷ cốc ngay trong đêm để điều trị.

Hàn độc, không chịu được gió lạnh. Người bình thường cùng lắm chỉ ho và sốt, nhưng điện hạ thì có thể mất mạng.

Y nữ lo lắng lau người cho Tạ Trùng Tự, rồi bắt mạch, nói: “Theo lí mà nói, mấy hôm nay cũng không quá lạnh, bếp lò cũng đốt suốt ngày đêm, sao lại bỗng đổ bệnh…”

“Nghỉ ngơi là sẽ khỏe thôi”. Nằm trên giường, Tạ Trùng Tự chùm chăn kín mít, chỉ để lộ đôi mắt tinh ranh, nàng thì thầm: “Tiểu Cẩm, không còn sớm nữa, đi ngủ đi”.

Y nữ tiểu Cẩm xem mạch xong thì đặt tay Tạ Trùng Tự vào chăn, sau đó nàng ta còn cẩn thận kiểm tra hết các góc chăn, xem có bị hở hay không, xong xuôi mới nói: “Vậy thảo dân đi bàn bạc với Nhan tướng quân một chút”.

Điện hạ bị bệnh thế này còn ngồi xa giá gì nữa. Đùa sao!

Nàng ấy thương bệnh nhân của mình, sau khi lui xuống thì rảo bước rời khỏi.

Qua vài ngày, chứng phong hàn của Tạ Trùng Tự mới từ từ có tiến triển. Bau đầu là hết sốt, sau đó là hết ho, lúc này đoàn người tùy tùng mới dám đưa nàng ra ngoài, bọc nàng trong quần áo kín mít, ngồi trong một xe ngựa kín gió.

Cỗ xe ngựa đơn giản này thong dong lăn bánh, rời khỏi Khương Trang trong ánh nắng ban mai. Lão phu nhân của gia đình đó không biết thân phận của Tạ Trùng Tự, nhưng bà rất thích nàng, nàng còn lì xì sáu đồng tiền, chúc bà bình an khỏe mạnh.

Ngồi mãi trong xe, Tạ Trùng Tự cảm thấy nhàm chán, bèn lấy đồng xu ra chơi trò bói toán, kết quả đều là “phúc họa gắn liền với nhau”, nàng bán tính bán nghi, nhưng cũng chỉ coi đó là trò tiêu khiển, không xem là thật. Nàng cứ gϊếŧ thời gian như vậy, gần đến trưa, đoàn người cuối cùng cũng tiến vào Cửu Hợp Môn.

Đầu xuân năm mới, người ở Vọng Đông nô nức kéo nhau ra đường, quan lại hay quý tộc đều có cả.

Xe ngựa của Tạ Trùng Tự rất đỗi bình bị, lăn bánh trên đường không hề gây sự chú ý. Nhất là vào lúc này, tại Mặc Vận Lâu, các công tử thế gia cùng môn khách đang mải đánh cờ.

Tuy vậy vẫn có một ánh mắt rơi trên cỗ xe.

“Nhìn gì mà mất hồn thế?”

Tuyên Giác thu lại ánh nhìn, ban nãy khi vô tình liếc qua cỗ xe ngựa đó, trái tim chàng bỗng nhói lên. Hạ một quân cờ xuống, đáp lời trưởng huynh của mình: “Qua mười lăm, các cửa hàng đều mở lại, ngắm cảnh phố phường tưng bừng chút thôi”.

Tuyên ngự sử đại nhân, có ba con cả trai lẫn gái. Trưởng nữ đang đợi xuất giá, con út dù có tài năng xuất chúng, nhưng vẫn chưa ra làm quan.

Chỉ có đứa con thứ hai Tuyên Tông này là coi như có chút nổi bật trong triều. Hắn vừa qua nhược quán, thi đỗ thám hoa, hiện đảm nhận chức vụ lễ bộ thị lang, bình thường làm việc cẩn thận chu đáo, rất được lễ bộ thượng thư và hình bộ thượng thư xem trọng.

Ông già bên hình bộ đó nằm mơ cũng muốn cướp người về tay, bởi vì Tuyên Tông nghiêm cẩn cứng nhắc, nói năng thận trọng, dù là thẩm vấn hay tra xét cũng đều phù hợp. Một trợ thủ đắc lực như vậy lại làm việc ở lễ bộ quả thực lãng phí nhân tài.

Tuyên Tông vừa từ lễ bộ tới đây, cau mày nói: “Có gì đáng xem chứ, đệ cũng thật là, đầu xuân năm mới lại không ở nhà. Nếu ta không tới, đệ định ngồi đánh cờ một mình cả ngày hả? Mau… về nhà đi”.

Dẫu sao vẫn đang là ngày tết, hắn không nói chữ “cút” kia ra.

Tuyên Giác liên tiếp khóa quân của huynh trưởng, mặt không đổi sắc cất giọng nghe ngóng: “Vài ngày trước lễ bộ còn bận rộn lắm cơ mà, sao vậy, lại hết việc rồi à?”

Bằng không sao lại có thời gian tới quấy rầy chàng.

Tuyên Tông: “Bận rộn phí công vô ích, nói đến lại bực, các quan viên lễ nghi đều đã sắp xếp ổn thỏa, lại nói không cần nữa, hoàng thượng cũng thật là…”

Thật là tùy hứng!

Có điều lời này hắn không thể nói ở giữa chốn đông người thế này được.

“Có lẽ đã có sắp xếp khác” Tuyên Giác đã đợi hai ngày nhưng vẫn không đợi được người ấy, trong lòng thầm có câu trả lời.

Có được đáp từ miệng huynh trưởng, Tuyên Giác cũng không kì kèo nữa, đánh liên tiếp vài quân cờ, giành chiến thắng đầu tiên trong năm mới, sau đó chàng đứng dậy chuẩn bị ra về cùng Tuyên Tông.

Tuyên Giác mười sáu mười bảy tuổi, nhìn vào ngoại hình, chàng có một đôi môi mỏng và phần quai hàm hẹp bạc tình bạc nghĩa. Nhưng nét mặt lại dịu dàng, dáng vẻ cao quý, khiến nét tàn nhẫn vốn có phai nhoà đi. Chàng ngay thẳng lễ độ, hành xử thận trọng, là hình mẫu công tử thế gia nổi bật của Vọng Đô.

Nhưng Tuyên Tông có cảm giác đệ đệ hắn gần đây có gì đó rất khác. Tuy không nói rõ được khác ở đâu, nhưng tóm lại không giống như ngày trước.

Ví dụ như lúc này đây, chàng đang xuất thần nhìn về phía bức tường cao sừng sững của hoàng cung cách đó không xa, cũng không biết muốn xuyên qua bức tường đó nhìn thấy gì nữa.

Tuyên Giác mau chóng thu lại ánh mắt, thứ mà chàng thấy được chỉ có bức tường màu tím kia mà thôi.

Chàng không hề hay biết, hai cỗ xe ngựa của Tạ Trùng Tự lúc này đang khoan thai tiến về hoàng cung.