Cái gọi là hội thanh đàm, chính là ngồi đàm luận về các học thuyết của Trang Tử.
Nói trắng ra thì là xem bói, mọi người cùng ngồi xuống nói chuyện cả ngày.
Tạ Trùng Tự trước nay vốn coi thường những thứ giả thần giả quỷ, năm đó nàng tới Quỷ Cốc trị bệnh, ở đó cũng có đệ tử giỏi bói toán.
Trên lưng nàng cắm đầy kim châm, thấy Giang Châu Ti đang lắc xu đồng trong mai rùa, cắn răng nói: “Sư tỷ, cho dù tỷ có giỏi bói toán thì cũng đâu hữu ích bằng việc châm kim đúng chỗ? Lần tới tỷ có thể tìm đúng huyệt vị cho ta không?”
Giang Châu Ti là một nữ tử lạnh lùng thoát tục, lúc nào cũng mặc đồ trắng, cảm giác như trong phút chốc có thể bị gió cuốn bay, nghe xong tỷ ấy liền nói: “Ta sẽ tận lực, quẻ nói, tháng sau muội sẽ tốt lên”.
Tạ Trùng Tự: “...”
Nhưng một năm sau, Tạ Trùng Tự vẫn phải châm cứu, mỗi một kim Giang Châu Ti đều phải châm ít nhất ba bốn lần.
Kể từ đó, Tạ Trùng Tự ghét cay ghét đắng trò bói toán lừa đảo này.
Có điều, nàng không ngờ tới, sẽ có một ngày, nàng tới tham dự hội thanh đàm.
Nàng đến để gặp Tuyên Giác.
Mùa thu, lá rơi xào xạc, lá phong đỏ rực như lửa, người tới chùa Hàn Sơn chật như nêm.
Ngoại trừ những người tới hành hương lễ Phật, còn có các quý nhân trong kinh thành, tới tham dự hội thanh đàm nữa.
Đất Phật linh thiêng, mọi người đều ăn vận mộc mạc. Vì để giữ hình tượng trong lòng ai đó, Tạ Trùng Tự không dám ăn mặc sặc sỡ, chỉ mặc một bộ váy áo vàng nhạt, trên búi tóc cũng chỉ cài trâm ngọc thôi.
So với màu đỏ và màu tím nàng thường mặc thì khác một trời một vực.
Nàng mang theo thị nữ là Diệp Trúc, thậm chí nàng còn không cưỡi ngựa mà ngồi xe tới.
Xe ngựa của hoàng gia dừng lại dưới chân núi, Diệp Trúc hoang mang trước sự khác thường của Tạ Trùng Tự, vén rèm ra khỏi xe, lấy ghế đẩu.
Không đợi nàng ta đỡ mình, Tạ Trùng Tự nhẹ nhàng nhảy phắt xuống, nhảy bay qua cả cái ghế đẩu, đững vững trên mặt đất. Không hề nhẫn nại trước mấy lễ tiết rườm rà kia.
Diệp Trúc: “...”
Điện hạ, sao người phải làm khổ bản thân như vậy chứ.
Lên tới nơi đã thấy có lác đác hai ba người đang nói chuyện. Cũng có người đang chơi cờ, người xem vây quanh rất đông.
Tạ Trùng Tự nhìn trái nhìn phải, chưa thấy người muốn gặp đâu, thế là nàng nhấc váy đi qua cổng chùa, đi lòng vòng ngắm nghía.
Diệp Trúc bám theo sau nàng, thì thầm: “Điện hạ, chúng ta đi vào sâu quá, quay lại thôi”.
Hơn nữa, cho dù người không vào điện bái lạy, thì ít nhất cũng nên tỏ ra tôn kính chút chứ!
Trong mắt Tạ Trùng Tự tràn đầy sự hiếu kì, vừa đi đường vừa nhìn ngó đánh giá, nói: “Ngọn núi này không lớn vậy mà chùa lại to nhỉ”.
Không biết qua bao lâu, hai người đi vào một sảnh phụ.
Nơi này như được xây cất đã lâu, trên tường đỏ loang lổ rêu xanh, phần mái màu vàng cũng đã hư hại. Nhưng tượng Phật bên trong lại rất trang nghiêm, bảo tướng hoa sáng chói, Phật Tổ cầm hoa cúi đầu, thần thái phúc hậu, nhìn xuống muốn dân.
Tạ Trùng Tự nhìn tượng Phật một lúc, khi chuẩn bị rời đi, nghe thấy tiếng một cụ ông hiền từ vang lên: “Thí chủ không ngồi một chút sao?”
Lúc này, nàng mới phát hiện, ở nơi góc tường có hai cái đệm hương bồ, một chiếc bàn gỗ, trên bàn là một ván cờ đang chơi dở.
Một lão hòa thượng mặc áo cà sa đang ngồi tự chơi cờ một mình.
Vì một vài nguyên nhân, gần đây Tạ Trùng Tự khá có hứng thú với cờ, nàng không nghĩ ngợi gì mà bước tới.
Ngồi đối diện lão hòa thượng, gật đầu nói: “Đa tạ đại sư đã có lời mời”.
Nàng chỉ định xem cờ, nhưng lão hòa thượng lại đẩy hộp cờ quân đen tới cạnh. Tạ Trùng Tự sững lại, cầm quân cờ lên.
Lão hòa thượng vừa hạ cờ, vừa nói: “Hôm nay nghe tiếng chim hỉ tước hót vang, quả nhiên có quý nhân tới. Lần trước gặp điện hạ, là khi người ba tuổi, thoắt một cái nhiều năm đã trôi qua, ngày tháng trôi thật nhanh!”
Cơ thể Tạ Trùng Tự cứng lại.
Chùa Hàn Sơn là quốc tự, phụ hoàng đã không ít lần nhờ tăng nhân reo quẻ giúp nàng.
Nghe đồn năm mười hai tuổi nàng sẽ gặp nạn, không sống sót được.
Lời đồn đó cũng từ chùa Hàn Sơn mà ra.
Nghĩ tới điều này, ánh mắt Tạ Trùng Tự chớp mắt liền biến đổi.
Lão hòa thượng không để ý, cố tìm chủ đề để nói chuyện cùng nàng, nước cờ trên tay chặt chẽ không chút sơ hở.
Tạ Trùng Tự là người nghĩ tới đâu đánh tới đó, hoàn toàn không phải đối thủ của ông.
“Ta thua rồi” Tạ Trùng Tự cũng chẳng buồn, tính cách nàng vốn vui tươi, đặt hai con cờ vào góc phải bàn cờ nhận thua.
Lão hòa thượng cười ha ha nói: “Điện hạ chơi không tồi. Ở tuổi như người, rất ít người có thể chơi quá nửa ván với ta. Còn đánh thắng được ta thì chỉ có tên tiểu tử của Tuyên gia đó”.
“Hả?” Tạ Trùng Tự bỗng hứng chí bừng bừng, “Tuyên Ly Ngọc sao?”
“Là hắn”
Tạ Trùng Tự thấy lão hòa thượng dọn cờ, mở miệng thương lượng: “Đại sư, người có thể xếp lại thế cục của ván cờ đó cho ta xem không? Ván cờ mà chàng thắng người đó”.
“...” Lão hòa thượng không biết nói sao, “bần tăng cũng cần giữ thể diện chứ”.
“Thế ván mà chàng thua người cũng được”
Lão hòa thượng: “...”
Ông ấy hiếm khi rảnh rỗi, âm thầm tới đây chơi cờ, không ngờ lại bị người ta yêu cầu phục bàn.
Lại còn bắt gặp tình yêu tràn đầy sức sống của những người trẻ tuổi nữa, thật ưu sầu!
Có điều, thấy Tạ Trùng Tự quá háo hức, lão hòa thượng nói: “Thí chủ có thể đi hỏi Tuyên công tử, trí nhớ của hắn tốt, nhớ được. Bần tăng ngay cả ván cờ vừa chơi còn quên sạch rồi đây”
Tạ Trùng Tự ngượng nghịu, thở dài một hơi: “Ôi đành thôi vậy... ta xin cáo từ trước, hội thanh đàm sắp bắt đầu rồi”
“Không cần vội vã như vậy, lão già ta cũng cần ra đó để chủ trì, chúng ta có thể đi cùng nhau” lão hòa thượng vuốt chòm râu trắng, cầm lấy cây quyền trượng của trụ trì, vừa đứng dậy, vừa chậm rãi hỏi vài câu hỏi mà thi thoảng lại xuất hiện trong hội thanh đàm, “thí chủ có tin vào số mệnh không?”
Tạ Trùng Tự tỏ ra vô cùng tôn kính, ngồi quỳ trên đệm hương bồ, đầu gục xuống, nhưng nàng vẫn giữ nguyên suy nghĩ trước đây: “Nếu ta tin, vậy thì ta đã chết lâu rồi. Trụ trì, không giấu gì người, tính mạng của ta được nhặt về từ quỷ môn quan, không phải do trời ban, cũng không phải được vận mệnh trao tặng, là ta cùng những người xung quanh gắng sức cướp về. Vận mệnh nói ta không sống quá mười hai, nhưng không phải ta vẫn sống tới tận bây giờ sao. Người nói ta phải tin thế nào?”
Lão hòa thượng nói: “Thiện tai”
Rồi tiếp tục cất tiếng: “Vậy nếu số mệnh không có duyên, cũng phải đoạt được sao?”
Tạ Trùng Tự ngẩng phắt lên, nàng luôn cảm thấy vị sư này đang ám chỉ gì đó, nhưng lại không tìm ra manh mối, chỉ có thể cau mày nói: “Đại sư nặng lời rồi. Thành sự tại thiên, nhưng mưu sự tại nhân, không đến mức phải cướp về, chỉ cần không thẹn với lòng, về sau không hối hận là được”
Sau này, Tạ Trùng Tự mới biết, duyên phận cưỡng cầu không chỉ nói tới cướp đoạt, mà còn ám chỉ nhân duyên bị ngăn cách bởi thâm thù đại hận, nhưng hai người vẫn gắng sức để bên nhau.
Lúc đó, nàng cũng mới tỉnh ngộ, cái gọi là không thẹn với lòng, hay về sau không hối hận đều quá mệt mỏi, quá mệt mỏi.
Đến khi kiệt sức, chỉ muốn lìa xa nhau.
Nhưng lúc này, lời của lão hòa thượng khiến Tạ Trùng Tự cảm thấy bị xúc phạm.
Nàng đâu có cướp đoạt công tử nhà lành! Cũng không ban thánh chỉ bắt Tuyên Giác trở thành phò mã! Nàng vẫn đang bồi dưỡng tình cảm đó thôi!
Vậy nên, Tạ Trùng Tự đứng dậy, cúi đầu một cái rồi cứ thế đi thẳng, không đợi lão hòa thượng.
Nàng không nhìn thấy, lão trụ trì quay đầu nhìn về tượng Phật tôn nghiêm, như cười, như thương xót, như than thở, cất tiếng: “Người cũng cảm thấy hồng trần quá khó đi phải không? Hai đứa trẻ này liệu có hái được trái ngọt không đây?”
Lần trước, Tuyên Giác tới, tâm trạng bất ổn, lão hòa thượng vừa nhìn liền biết chàng có tâm sự, ông hỏi bóng hỏi gió vài câu, đoán ra tình hình.
Quẻ mà ngày đó ông xem được, là đại hung.
Hôm nay, Tạ Trùng Tự tới rồi rời đi, lão hòa thượng do dự một lát, sau đó bốc lại quẻ cho hai người, khi lắc quẻ, một cái trong số đó là tốt.
Một cái khác thì xoay tròn rồi rơi xuống bên đệm, dựng đứng lên. Không tốt, cũng chẳng xấu.
Lão hòa thượng: “...”
Ông ấy sững lại.
Đây là ý gì?
Lúc ngẩng đầu, lại nhìn thấy gương mặt vẫn từ bi hỉ xả của Phật Tổ. Ông bỗng mỉm cười.
Thôi vậy, xem ra các vị trên cao coi như vẫn để đôi uyên ương này một đường sống.
Tạ Trùng Tự rảo bước rời khỏi các bức tường trùng điệp trong chùa, Diệp Trúc chạy bước nhỏ theo sau, nhỏ giọng kiến nghị: “Điện hạ, sao vừa rồi người không đợi trụ trì đại sư? Lát nữa gặp lại không phải sẽ lúng túng lắm sao”.
Tạ Trùng Tự lạnh mặt: “Ừ”
Bỗng, hai mắt nàng sáng lên, nhấc váy chạy nhào về phía trước, Diệp Trúc thở không ra hơi: “Điện hạ, người chậm...”
Diệp Trúc chưa nói hết câu, liền thấy điện hạ nhà mình đang nở một nụ cười rạng rỡ, đứng im trước mặt chàng thiếu niên vừa lên tới nơi.
Chàng trai đó lưng cõng theo cây cổ cầm, đi một mình, tua rua của miếng ngọc bội gắn trên cây đàn bay phất phơ trong gió.
Diệp Trúc chưa từng gặp Tuyên Giác, nhưng âm thầm đoán ra được người tới là ai.
Quả nhiên, trong chớp mắt, Tạ Trùng Tự chắp tay ra sau, ngón tay xoắn chặt, trên mặt không để lộ chút căng thẳng nào, nàng cười nói: “Ly Ngọc, chàng tới rồi sao?”
Rặng phong đỏ bị gió thổi tung, lá rơi xào xạc.
Có một phiến lá bập bềnh bay xuống, đậu trên mái tóc của Tạ Trùng Tự. Tô điểm cho dáng vẻ tao nhã trở nên kiều diễm.
Đôi mắt Tuyên Giác khẽ rung lên, chàng giúp nàng gạt chiếc lá đó ra, sau đó gật đầu nói: “Ừ”.