Chương 7
Tối thứ Ba đồng nghĩa với việc sẽ ăn ở bếp ăn xúp. Đó không phải là bữa trưa tệ nhất trong tuần mà phải là tối Chủ nhật khi mẹ chiêu đãi món gà nướng. Nhưng bữa trưa tối thứ Ba cũng không lấy gì làm thịnh soạn.
Bếp ăn xúp cũng chỉ là gọi vậy. Đó không hẳn là một căn bếp, và họ cũng hiếm khi có món xúp. Đó là một phòng ăn rộng dưới tầng hầm một nhà thờ đã được nâng cấp, nơi người vô gia cư tập trung dùng bữa và ngủ qua đêm. Thức ăn do những người tình nguyện chuẩn bị, họ thường mang tới bánh mì kẹp, khoai tây chiên, hoa quả và bánh trái.. “Những món tạp” mẹ Theodore thường gọi thế. Không phải món nào cũng bổ dưỡng.
Theodore nghe đâu có đến ba trăm người vô gia cư ở Strattenburg. Cậu gặp họ ăn xin hoặc ngủ trên ghế đá ở phố Main. Cậu thấy họ bới tìm đồ thừa ở các thùng rác công cộng. Chính quyền thành phố giật mình với con số này, cùng với việc thiếu giường chiếu ở các khu dành cho người vô gia cư. Hội đồng thành phố hình như tuần nào cũng thảo luận về vấn nạn này.
Bà Boone cũng giật mình. Bà vốn rất quan tâm đến những bà mẹ vô gia cư, đến nỗi bà đã phát động chương trình giúp đỡ nạn nhân của nạn bạo hành gia đình. Những phụ nữ bị đe dọa và đánh đập. Những phụ nữ không có chỗ ở, không có người để nương tựa. Những phụ nữ phải chăm con nhỏ, cần được giúp đỡ mà không biết tìm kiếm sự giúp đỡ ở đâu. Bà Boone, cùng một vài nữ luật sư khác trong thị trấn, còn mở một phòng khám hợp pháp nhỏ để giúp đỡ những con người như thế.
Và vì vậy, thứ Ba hằng tuần, gia đình nhà Boone đều đi bộ từ văn phòng qua vài con phố đến Nhà Tình thương phố Highland, dành ba tiếng đồng hồ cho những người kém may mắn hơn. Họ thay phiên nhau phục vụ bữa tối cho hàng trăm người đã tụ tập sẵn ở đấy, xong xuôi mới ăn qua quýt dăm ba miếng.
Mặc dù không cần phải biết, nhưng Theodore từng nghe lỏm bố mẹ thảo luận xem gia đình họ có nên tăng số tiền quyên góp hằng tháng cho Nhà Tình thương từ hai trăm lên ba trăm đô la không. Bố mẹ cậu chẳng phải giàu có gì. Bạn bè cậu nghĩ nhà cậu rất khá giả vì bố mẹ đều làm luật sư, nhưng thật ra công việc của họ không sinh lợi đến vậy. Họ sống giản dị, tiết kiệm cho việc ăn học của Theodore vui thú với việc hào phóng với những ai thiếu điều kiện hơn mình.
Sau bữa tối, ông Boone làm một căn phòng tạm ở cuối phòng ăn, và vài người vô gia cứ kéo nhau ra đó. Ông Boone sẽ giúp họ giải quyết những vấn đề mà quanh đi quẩn lại là bị đuổi khỏi căn hộ đang ở, bị khước từ cấp phiếu ăn hoặc chăm sóc sức khỏe. Ông thường bảo họ là những khách hàng đáng mến của ông. Họ không có tiền trả, nên ông không phải chịu sức ép là đã nhận tiền của họ. Ông cố giúp được bao nhiêu, họ cảm ơn bấy nhiêu. Và hơn hết, ông thực sự thích nói chuyện với họ.
Vì tính chất công việc của mình nhạy cảm hơn, bà Boone gặp khách hàng trong một gian phòng nhỏ trên gác. Vị khách đầu tiên có hai con nhỏ, không tiền, không việc làm, và nếu không có Nhà Tình thương thì cũng không có nơi nào để ngủ đêm nay.
Nhiệm vụ của Theodore là khoản bài tập về nhà. Tại Nhà Tình thương có mấy gia đình được phép ở đến mười hai tháng - đó là giới hạn quy định ở phố Highland. Sau một năm, họ phải rời đi - Hầu hết bọn họ khi ấy đều đã tìm được việc làm, chốn ở, nhưng cũng phải mất thời gian. Trong thời gian lưu lại, họ được đối đãi như các cư dân khác của Strattenburg. Họ được cung cấp lương thực, quần áo, và chăm sóc y tế. Họ hoặc đã có việc làm hoặc còn đang tìm kiếm. Họ được mời tới dự lễ tại các nhà thờ.
Còn con em họ được cho đi học ở các trường địa phương. Đêm đến, tại Nhà Tình thương, những người tình nguyện do nhà thờ kêu gọi giúp các em làm bài tập. Việc của Theodore là tối thứ Ba hằng tuần đến dạy tiếng Anh cho hai em lớp Hai, Hector và Rita và giúp cả cậu anh trai của chúng môn Đại số. Họ đến từ El Sanvaldor, ông bố bỗng dưng biến mất sau những sự kiện bí ẩn, khiến họ trở thành trẻ lang thang. Họ cùng mẹ tá túc dưới gầm cầu nhưng rồi bị cảnh sát phát hiện.
Như thường lệ, Hector va Rita mong ngóng được gặp Theodore, đu lên người cậu trong lúc cậu gặm bánh sandwich. Sau đó, cả bọn nhốn nháo kéo nhau đi xuôi hành lang tới một căn phòng rộng thông thoáng, nơi các trẻ khác tụ tập để được phụ đạo.
“Không nói Tây Ban Nha nhé,” cậu nhắc lại. “Chỉ tiếng Anh thôi.”
Tiếng Anh của chúng tiến bộ đáng ngạc nhiên. Chúng tiếp thu hằng ngày ở trường, rồi về dạy lại cho mẹ. Chúng kiếm được chiếc bàn ở góc, Theodore bắt đầu đọc truyện tranh, một cuốn truyện nói về một con ếch lạc giữa biển khơi.
Bà Boone khăng khăng muốn Theodore bắt đầu học tiếng Tây Ban Nha từ lớp Bốn, ngay khi nhà trường có giờ học. Thấy bài ở lớp quá dễ, bà lại thuê gia sư hai tuần một lần ghé qua văn phòng để bồi dưỡng nâng cao cho Theodore. Vì mẹ thúc ép như vậy, lại được cô Monique hằng ngày truyền cảm hứng, Theodore học rất nhanh.
Cậu đọc một trang, để Rita đọc lại. Đến Hector. Theodore chỉnh cho chúng, rồi lại sang trang kế tiếp. Khu phụ đạo ồn ào, thậm chí náo nhiệt, vì có khoảng hơn hai chục học sinh ở các lứa tuổi đang cày bài tập về nhà.
Cặp song sinh còn có cậu anh trai, Julio, lớp Bảy, vẫn thỉnh thoảng gặp Theodore ở sân trường. Cậu này cực kỳ rụt rè, đến mức nhát chết. Bà Boone tin rằng đứa trẻ tội nghiệp này có lẽ đã bị tổn thương sâu sắc từ thảm kịch mất bố giữa xứ người và không có ai nương tựa.
Bà luôn đặt ra một giả thiết khi ai đó hành động khác thường.
Sau khi Theodore đọc xong cuốn thứ hai cho Hector và Rita, Julio đến ngồi xuống cùng bàn.
“Chuyện gì thế?” Theodore hỏi.
Julio mỉm cười quay đi.
“Đọc thêm một quyển nữa đi anh,” Hector giục.
“Đợi một tẹo đã.”
“Mình gặp rắc rối với môn Đại số,” Julio trả lời. “Cậu giúp mình được không?”
“Anh ấy là của bọn em,” Rita nói với anh trai, và tỏ ra sẵn sàng chiến đấu.
Theodore lượm hai quyển sách trên giá, đặt trước mặt Hector và Rita. Rồi cậu lấy hai cuốn tập viết, hai bút chì. “Đọc mấy cuốn này,” cậu hướng dẫn. “Đọc to từng từ. Khi thấy từ nào không hiểu, bọn em viết ra giấy. Được chứ?”
Chúng chộp lấy mấy quyển sách, mở ra như thể đây là một cuộc đua tài. Theodore cùng Julio nhanh chóng lọt vào thế giới đại số. o O o
Vào lúc 10 giờ, gia đình Boone có mặt ở nhà, và ngồi trước ti vi. Chó Judge ngủ trên ghế sofa, đầu gối lên lòng Theodore. Vụ án Duffy là tin tức duy nhất ở Strattenburg, nên cả hai đài truyền hình thành phố tối đó đều không đưa tin gì khác. Họ phát cảnh Pete Duffy bước vào phòng xử án, vây quanh là luật sư cùng các nhà tư vấn luật và mấy người khác mặc com lê đen mặt ngầu ngầu. Lại có một video khác, ghi từ trên máy bay, quay ngôi nhà của gia đình Duffy ở đường lăn bóng số sáu tại Waverly Creek. Một phóng viên đứng bên ngoài tòa án, bắn liên thanh nội dung tóm tắt các cuộc thẩm vấn tính đến nay. Thẩm phán Gantry đã có lệnh cấm tiết lộ thông tin của vụ án; nên không ai trong số luật sư, cảnh sát hay các nhân chứng được phát biểu cảm nghĩ hay bình luận gì.
Thẩm phán Gantry còn cấm quay camera trong phòng xử của ông. Đội quân báo chí đều phải ở ngoài.
Theodore không nói chuyện gì khác, bố mẹ cũng cùng chung mối nghi ngờ như cậu rằng Pete Duffy có tội. Tuy nhiên, chứng minh được điều đó xem ra rất nan giải.
Trong suốt chương trình quảng cáo, Theodore ho để đánh tiếng. Bố mẹ không để ý đến, cậu lại ho nhiều hơn, rồi bảo:
“Con rát họng quá.”
“Trông con xanh lắm,” bố nói.
“Có khi con bị ốm rồi”
“Con cảm thấy không khỏe.”
“Mắt con có đỏ không?”
“Hình như có.”
“Đau đầu?”
“Có ạ, nhưng không nặng lắm!”
“Buồn hắt hơi, nhảy mũi?”
“Có ạ.”
“Từ bao giờ hả con?” mẹ cậu hỏi.
“Con ốm rồi,” bố cậu nói. “Bố đề nghị mai con nghỉ học kẻo lây bệnh cho các bạn khác. Nhưng sẽ là một ý hay nếu thay vào đó con đến tòa theo dõi vụ xử Duffy.
Mẹ nghĩ sao?”
“Ờ, mẹ biết rồi,” mẹ trả lời. “Bị virus cúm bất ngờ tấn công rồi.”
“Có thể chỉ là một trong những triệu chứng khó chịu kéo dài hai mươi tư giờ và sẽ chấm dứt một cách kỳ diệu khi giờ học kết thúc,” bố thêm vào.
“Con cảm thấy không khỏe thật mà,” Theodore cố chống chế, biết là mưu đồ bị lộ nhưng cố níu kéo.
“Cứ uống một viên aspirin, có thể cả xi rô ho nữa,” bố khuyên. Woods Boone hiếm khi chịu đi bác sĩ khám, ông cho rằng hầu hết mọi người quá lãng phí tiền cho thuốc men.
“Con có thể ho lại cho bố mẹ nghe không, Cún cưng?” mẹ hỏi. Là một người mẹ, bà cũng hơi dễ cảm thông hơn mỗi khi cậu bảo không khỏe. Sự thật là Theodore có tiền sử giả ốm, đặc biệt những khi cậu có việc gì đó thú vị hơn việc đến trường.
Bố bắt đầu không nhịn được cười. “Phải, tiếng ho nghe có vẻ kém, Theodore ạ, so với tiêu chuẩn mọi lần của con.”
“Con chết mất,” Theodore tiếp tục cố không bật cười.
“Ừ, nhưng chết làm sao được” bố nói, “nếu ngày mai con xuất hiện ở phòng xử, Thẩm phán Gantry sẽ cho bắt con ngay về tội trốn học “Bố mẹ có biết luật sư giỏi nào không?” Theodore phản đòn. Mẹ phá lên cười, và cuối cùng, ông Woods coi đây là một màn tiếu lâm.
“Thôi nào, đi ngủ thôi” bố nhắc.
Theodore lê bước lên gác, cảm giác bại trận hoàn toàn, chó Judge lủi thủi theo sau. Vào giường, cậu mở laptop xem April có trên mạng không. Theodore thở phào khi thấy cô bé phản hồi,
APRILNPARIS: Chào Theodore. Cậu thế nào?
TBOOONEESQ: ổn. Cậu đang ở đâu?
APRILNPARIS: Ở nhà, trong phòng, cửa khóa.
TBOOONEESQ: Mẹ cậu đâu?
APRILNPARIS: Dưới nhà. Mẹ với mình không nói chuyện.
TBOOONEESQ: Cậu có đến trường không?
APRILNPARIS: Không, phiên xử kéo dài đến tận trưa. Mình mừng là nó đã kết thúc.
TBOOONEESQ: Lúc làm chứng, cậu thế nào?
APRILNPARIS: Khủng khϊếp. Mình khóc, Theodore ạ. Mình không đừng được. Mình nói với thẩm phán là mình không muốn ở với mẹ, cũng không muốn sống với bố. Luật sư của mẹ hỏi mình. Luật sư của bố cũng hỏi. Thật kinh hãi. TBOOONEESQ: Mình rất tiếc.
APRILNPARIS: Mình không hiểu tại sao cậu lại muốn trở thành luật sư.
TBOOONEESQ: Để giúp những người như cậu. Đó là lý do. Đó là những gì người luật sư tốt phải làm. Cậu có ưa ông thẩm phán không?
APRILNPARIS: Mình chẳng ưa ai cả.
TBOOONEESQ: Mẹ nói là ông ấy tốt lắm. Ông ấy đã ra quyết định về việc chăm sóc cậu chưa?
APRILNPARIS: Chưa. Ông ấy bảo sẽ có quyết định trong vòng vài ngày.
Hiện giờ, mình tạm ở với mẹ, luật sư của mẹ cho rằng mình sẽ ở đây.
TBOOONEESQ: Có thể là như vậy. Cậu sẽ đến trường chứ?
APRILNPARIS: Ừ, cả tuần rồi mình chả đυ.ng đến bài vở gì cả.
TBOOONEESQ: Mai sẽ gặp cậu sau.
APRILNPARIS: Theodore, cảm ơn cậu. o O o
Một tiếng sau, Theodore vẫn tỉnh như sáo, đầu óc tua đi tua lại không ngừng, từ April sang vụ án gϊếŧ bà Duffy, rồi ngược lại.