Chương 8
Một tuần lễ trước khi ông Sando và Loonie từ Bali trở về với nước da sạm đen và cặp mắt ngời sáng, tôi đã đến gặp bà Eva lần nữa. Lần này tôi không có cá. Tôi thấy buồn nản và cô đơn, lòng sục sôi thèm khát biển khơi. Tôi đã muốn nói cho người đàn bà Mỹ lạ thường này biết tôi đang nghĩ gì về bà ta.
Mấy tháng trước, ông Sando đã bố trí một thiết bị thể dục nơi hàng hiên, gồm những quả tạ và ròng rọc, để Eva tập cho cái chân khỏe lên. Tôi chưa bao giờ thấy bà sử dụng thiết bị này, nhưng khi bước lên các bậc thang thì tôi thấy bà đang quay cái hệ thống ấy không chút ngừng nghỉ. Bà Eva thấy tôi nhưng vẫn không dừng lại. Người bà đầm đìa mồ hôi, rất mạnh mẽ trong sự đau đớn khiến cho tôi phải ngạc nhiên. Tôi thấy rờn rợn lo âu, nhưng vẫn đứng yên ở đấy như bị hớp hồn vì cái nhìn của bà, và ngẩn ngơ chẳng biết làm gì. Tôi thấy mình như đã đi lạc vào lĩnh vực riêng tư. Thật kỳ cục, nhưng tôi không dám bỏ đi. Bà Eva tiếp tục tập thêm năm phút nữa rồi mới leo xuống, rã rời mỏi mệt.
- Vứt cái khăn lại cho tôi!
Tôi thấy bị xúc phạm, nhưng chẳng biết làm gì.
- Đưa cho tôi đi, chàng ngốc. Cái khăn lau ấy!
Tôi thấy chiếc khăn vắt trên thành lan can bên cạnh mình. Tôi rút xuống vo tròn lại rồi ném hơi mạnh tay. Bà ta chụp lấy cái khăn và vùi mặt vào. Bộ ngực bà nẩy lên thật mạnh khiến tôi không biết có phải bà đang khoe ra hay không, nhưng tôi cảm thấy tò mò hơn là kích động.
Một làn gió nhẹ khua động chùm chuông gần chỗ chúng tôi. Tôi chẳng biết vì sao mình đứng đấy, đây là một dịp để tôi chuồn về.
- Ồ - Cuối cùng bà nói và lau mồ hôi nhễ nhại trên mặt - Tôi phải đi tắm cái đã.
- Vậy thì tôi về.
- Ở lại đã - Bà nói - Tôi đi pha cà phê đây.
- Tôi không thích uống cà phê.
- Được, vậy thì cô-ca. Chúng ta sẽ nói chuyện. À, tôi chưa cho con chó ăn gì. Bao thức ăn còn để trên xe. Cậu lấy dùm được không?
Tôi đi xuống dưới sân cùng với con chó và thấy cái túi lớn thức ăn cho chó. Tôi đổ ra một cái đĩa và đặt trên nền nhà. Khi Eva bước ra hàng hiên, tóc bà đã được chải mượt lại và đôi mắt bà sáng hơn. Hai chân để trần, mặc áo dài sát nách, bà ta có vẻ trầm tĩnh. Dường như cơn đau đã qua. Bà ngã người trên chiếc võng, đong đưa.
- Tôi đói bụng. Cậu biết nấu ăn không?
Tôi lắc đầu.
- Tôi cũng nghĩ thế - Bà nói - Vào đây. Mình cùng làm món thịt băm. Tôi mua thức ăn sáng nay rồi.
Trong khoảng một giờ đồng hồ, bà chỉ huy tôi làm bếp và cuối cùng, chúng tôi yên lặng ngồi ăn bên ngoài cái bàn gỗ. Cả hai chúng tôi cùng ngồi trên những chiếc ghế đẩu do ông Sando đóng bằng cây rừng. Sự hợp tác tạm bợ này thật kỳ lạ. Lúc đầu không một người nào trong chúng tôi thích làm bạn với người kia. Chúng tôi bị gán ghép vào với nhau.
Xong bữa ăn, bà Eva lại trở nên thích nói chuyện. Chúng tôi trở ra ngoài hàng hiên, gieo mình vào trong võng và bà kể cho tôi nghe chuyện bà lớn lên ở Salt Lake City, về những tu sĩ Mormon, về các ngọn núi và về người mẹ quá cố của bà. Bà vui vẻ giải thích với tôi về các học bổng nhà trường và về sự kiện thiên thần Moroni kỳ lạ. Bà nói chuyện về các tôn giáo mới cùng thứ tiền tệ mới mà tôi nghe chẳng hiểu được gì, và bà càng nói thì tôi thấy nước Mỹ càng thêm xa lạ.
Qua ti vi, tôi thấy những người Mỹ dịu hiền và tình cảm, tất cả đều vui vẻ an phận và sống rất yên ổn ở nhà họ. Nhưng qua lời bà Eva nói thì đồng bào của bà là những con người bon chen, di chuyển đông nghịt ngoài xa lộ, ngoài phi cảng và hoạt động khá mạnh mẽ. Bà nói là họ bị thúc đẩy bởi những tham vọng mà không một người dân Úc nào có thể hiểu được. Bà thích những góc độ mới, thích được phục vụ tốt hơn, muốn có sự di động nhanh hơn. Tôi cố hình dung ra những gì bà muốn nói. Nghe bà nói thì dân tộc của bà gồm toàn những con người dữ dằn. Thế nhưng ở đâu cũng có Chúa - trong trò chuyện, trong âm nhạc, cả trong chuyện tiền bạc của họ nữaế Đó là tham vọng, bà nói. Sự khao khát và lo âu cực độ.
Thật khó dung hoà những quan điểm trái ngược rối bời giữa sự hãnh diện và sự ghê tởm trong câu chuyện dông dài của bà Eva, nhưng nó cũng đem lại cho tôi nhiều điều để suy nghĩ. Người dân Sawyer ở đây có vẻ an phận hơn - đúng ra là gỉ sét hơn. Họ muốn được bình yên. Họ thấy khó chịu với những tham vọng và tránh né bất cứ những chuyện gì không thể đoán trước được hoặc có tính mạo hiểm. Có một sự vĩ đại không nói nên lời trong cái phong cảnh xứ tôi, nhưng dường như là quyền uy và định mệnh không gắn liền với những cánh đồng trơ trụi và những cánh rừng ẩm thấp nàyẻ Không có những núi non hùng vĩ và những con sông rộng hàng dặm ở đây. Không có những ngọn núi với những chỏm tuyết cao ngất, cho nên dường như không thể có những thiên sứ và cả Chúa cũng gần như không thể có.
Tôi không biết mình đã nằm trên chiếc võng bao lâu để nghiền ngẫm về tất cả những điều này, để rồi sau đó mới thấy là bà Eva đã ngưng nói chuyện từ lâu. Một cơn mưa bụi đã bắt đầu. Chống người trên khuỷu tay nhìn qua, tôi thấy bà đã ngủ. Mái tóc của bà khô và rối bời. Sự căng thẳng trên gương mặt không còn nữa. Chốc chốc, hai mi mắt bà giật giật và chuyển động. Bà cất tiếng ngáy nhè nhẹ và ngắt quãng. Ở nơi ống quần vén lên, hai bắp chân bà tái nhợt.
Có vẻ như không đứng đắn khi nhìn bà Eva như thế, nhưng từ trước tới nay, tôi chưa có dịp nào nhìn bà thật kỹ. Tôi chỉ biết về bà qua những cái liếc, cái nhìn trộm vào những lúc tôi thấy chắc là không gặp phải cái nhìn gay gắt của bà. Tôi leo ra khỏi võng và rón rén đi tới cạnh bà. Người bà sực nức mùi dầu gội và mùi hành phi. Tôi quan sát kỹ những vết sẹo trên cái đầu gối bị biến dạng của bà. Đường may mới sưng phù lên, trông như một con rết được ấn vào trong thịt của bà, và nó nằm chồng lên trên những đường may trước, một đám trắng bạc những đường may giống như là một di tích hoá thạch. Có những sợi lông chơm chởm trên xương ống chân của bà. Có lúc, trong giấc ngủ, bà nổi da gà trên hai cánh tay.
Tôi thấy nôn nao muốn chạm vào người bà. Không hiểu vì sao tôi muốn sờ vào cái đầu gối bị thương của bà. Tôi đưa một tay tới.
- Đừng làm đau tôi - Bà nói.
Tôi giật mình lùi lại, xô cái ghế va vào tường. Bà Eva ngồi dậy, bối rối và tỉnh táo.
- Gì vậy?
Tôi lắc đầu:
- Tôi đi đây.
Một buổi tối, khi tôi chưa làm xong bài tập thì Loonie lù lù xuất hiện. Tôi có thể thấy được ánh mắt đầy ý nghĩa của mẹ tôi khi bà dắt nó vào phòng tôi. Bà thích Loonie, nhưng sự cảnh giác quen thuộc của bà đã kiềm giữ bà lại. Bà xốc tay vào mái tóc vàng rơm của nó một lát và bóp mạnh vào vai nó khi bà bước ra.
- Tao có lỡ mất cái gì không? Không có đợt sóng nhồi nào chứ?
Tôi lắc đầu.
- Tuyệt lắm - Nó nói một cách trừu tượng. Nó ngồi lên giường tôi và lật lật mấy cuốn sách khoa học xã hội để trên đó.
- Thế à - Tôi nói. Như thế nào hả?
Nó đặt mấy cuốn sách xuống và bĩu môi:
- Thật không thể tin được.
- Mày về lúc nào?
- Tối hôm qua. Cha tao bị bệnh co giật. Này, xem đây.
- Loonie vén chiếc áo gió lên, cho thấy một vết thương dài dập nát.
- Ở Uluwatu - Nó lẩm bẩm - Chỗ ấy ghê lắm.
- Chuyện gì vậy?
- Vỉa đá ngầm. Dải san hô đâm toạc vào mình.
Suốt nửa giờ, nó kể cho tôi nghe về những con sóng cô đơn, những đền đài và những đồng lúa, những con khỉ, những lễ vật dâng cúng và khói nhang. Chuyện ông Sando ăn thịt rùa, ăn dừa, và ngồi trên chiếc thuyền khung chèo ra các vỉa đá ngầm… Tôi thấy chẳng muốn nghe. Loonie càng nói, tôi càng ít trả lời. Điều ấy khiến nó bối rối, tôi thấy rõ điều đó. Nó bèn nói qua những chuyện lớn lao hơn, những thời điểm dữ dội hơn, nhưng cũng chẳng ăn thua gì.
- Tao đem cho mày cái này, nó nói và đặt một cuộn lá tròn lên bàn bên cạnh tôi. Cuộn tròn này không lớn hơn một viên đạn súng trường.
- Cái gì vậy?
- Bồ đà đấy, ông bạn.
- Trời đất - Tôi lẩm bẩm.
Tôi nghe tiếng mẹ tôi đi tới trước khi bà mở cánh cửa. Cuộn lá rơi vào trong ngăn kéo và Loonie vội vã bước ra.
Mọi chuyện đã khác đi nhiều từ khi ông Sando và Loonie từ các vùng đảo trở về. Nếu có một đợt sóng nhồi khá lớn thì họ sẽ ra đó vào dịp cuối tuần. Cả ba chúng tôi đều lướt sóng nhiều lần ở vịnh Barney mùa hè vừa qua và còn được thấy cả con vật trùng tên ghê gớm của vịnh này nữa, nhưng phần lớn thời gian tôi thấy mình chỉ ở ngoài lề những chuyện của hai người kia. Thời gian ở Indonesia của Loonie đã giúp cho nó trở nên già dặn hơn. Nó được thấy những lễ hiến tế súc vật, các pháp sư, và đã từng đi bộ trên bãi biển màu đen của Hoả Diệm Sơn. Nó đã leo xuống cái hang Uluwatu huyền thoại và đã bơi chèo thoả thích ở đó. Trong khi ấy thì tôi chỉ là một cậu học trò hiền lành.
Giờ đây ông Sando cũng tỏ ra xa cách và bận rộn. Dường như ông đã đột ngột khép kín đối với tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy có những điều bí mật giữa ông và Loonie, những điều mà họ không muốn cho tôi biết, qua những nụ cười và cái liếc nhìn lén lút của họ. Khi chúng tôi cùng lướt sóng thì họ bộc lộ rõ một sự ngạo mạn có thể là sinh ra từ sự từng trải của họ, nhưng tôi cảm thấy bị đe doạ. Giờ đây tôi đã hiểu được ánh mắt mà những người dân Angelus dành cho tôiề Đó là cách mà họ nhìn thấy chúng tôi - một câu lạc bộ Brahman nho nhỏ.
Tôi không được gặp bà Eva nhiều, nhưng khi gặp thì tôi thấy bà có vẻ khép kín và không vui. Một luồng đối kháng mới lại diễn ra giữa bà và ông Sando. Bà cố làm như không có Loonie trên đời này.
Khi mùa thu chưa kịp đến thì đã xuất hiện một trận bão khủng khϊếp. Trên bản đồ dự báo thời tiết, trận bão này trông giống như một cơn lốc xoáy trên vùng biển nằm giữa chúng tôi và dải băng Nam cực. Vừa nhìn thấy trận bão này, ông Sando đã có một kế hoạch để chúng tôi đón nó ở Nautilus. Trong ngày thứ bảy và chủ nhật trước khi cơn bão ập đến thì con sóng nhồi trên đường đi của nó vẫn chưa hội đủ sức mạnh. Chúng tôi phải chờ cho trận bão đi qua rồi mới đón lấy con sóng nhồi theo sau nó. Như vậy có nghĩa là tôi phải bỏ ngày học nếu muốn cùng đi.
Trước khi gió mạnh rung chuyển cây côi, tôi đã biết là mình không sẵn sàng để đi Nautilus được. Vào đêm bão tới, tôi nằm trằn trọc trên giường cảm thấy mái nhà lay động, và tự hỏi làm sao mình có thể tránh được cuộc thử thách lớn này. Suốt hai ngày, những luồng gió mạnh từ biển thốc vào, mưa tuôn xối xả trên mặt đường, trên bãi cỏ và trên rừng cây. Qua sáng ngày thứ ba, trong khi trời còn tối mịt và tĩnh lặng một cách ma quái, tôi bị thức giấc vì một tiếng động ầm ầm làm rung chuyển những cây cột nhà. Nếu như không biết gì hơn thì tôi đã tưởng một đoàn xe tăng đang tiến vào vườn nhà mình và trong khu rừng sau nhà tôiễ Một thứ tiếng động trầm trầm, rầm rập, một sự thôi thúc đầy đe doạ không lúc nào ngưng. Tôi nôn nao bước xuống khỏi giường. Tôi nhét cái khăn lông và bộ đồ bơi vào trong cái túi đi học, ăn vài khúc xúc xích lấy từ trong tủ lạnh rồi chờ cho trời sáng.
Tôi đi đến trạm xe buýt bên ngoài cửa hàng thịt sớm khoảng nửa giờ, dự định là nếu ông Sando không đến thì tôi sẽ đi tới đó trước, đón xe buýt của nhà trường. Trong buổi sáng nay thì đến trường là một lựa chọn hợp lý. Nhưng chỉ một lát sau thì Loonie xuất hiện, nó phà hơi thở đầy hơi nước trên hai bàn tay, và chúng tôi chưa kịp nói gì với nhau thì chiếc Volkswagen với cái rờ-móc và chiếc xuồng đã trờ tới.
Đó là một chuyến đi dài xuyên qua khu rừng rồi sau đó chạy dọc theo những con đường câu cá để đến một bãi biển nhỏ đơn độc của hòn đảo này. Suốt con đường đi, ông Sando và Loonie động viên tinh thần cho nhau, người này đón nhận sự phấn khích của người kia, trong khi tôi ngồi nép người vào ô cửa kính, lặng thinh và lo sợ.
Đối với bất cứ ai dễ bị kí©h thí©ɧ thì chỉ một việc hạ thuỷ chiếc xuồng của ông Sando cũng đủ làm cho phát run phát rét cả một ngày. Cái vịnh nhỏ này là vùng xôn xao những đợt sóng nối tiếp nhau chạy ngang qua đó để vỗ vào bờ, và sức sóng dập xuống khá mạnh để có thể hất tung lên trời những mảng tảo bẹ tan tác cùng với bùn đất và vỏ sò. Chúng tôi đẩy chiếc xuồng ra, canh giờ giữa các đợt sóng và cho máy nổ, nhưng chúng tôi đâm ra lo lắng vì có một đợt sóng lẻ khua động ầm ầm trong vịnh. Đến giai đoạn này thì chúng tôi chẳng còn nơi nào khác để đi ngoài việc đi ra ngoài, cho nên chúng tôi phóng thẳng tới những lằn bọt biển dữ dằn đang dội vào bờ và mở ga thật lớn với hy vọng là những những lằn bọt này sẽ xanh trở lại trước khi chúng tôi tới đó. Chúng tôi bám chắc vào mọi cái gì có thể bám được. Tôi cảm thấy gió thốc vào trong tóc mình. Cứ mỗi lần tìm cách chống cự thì chúng tôi lại bị hất tung lên không, và chiếc chân vịt rú lên trước khi chúng tôi đáp xuống trở lại với một tiếng huỵch điếng người. Loonie gào thét như một đấu sĩ cưỡi bò. Giá như có thêm một chiếc nón thì nó đã vung vẫy lên rồi. Chúng tôi đã tìm được vùng nước an toàn, nhưng đó không phải là một khởi đầu tốt cho một ngày ở Nautilus của tôi. Trên quãng đường còn lại, tôi đã đi xuồng với tiếng nước róc rách và mồ hôi để trong bộ đồ lặn. Hòn đảo hoa cương và đám hải cẩu chìm ngập giữa các làn sóng. Mặt biển ngoài kia đen sì và xao động.
Trong một đợt gió lặng, chúng tôi dừng lại gần nơi mép nước sâu đối diện với đất liền để chờ trước khi thả neo cho chiếc xuồng. Lúc đầu chẳng thấy gì nhiều ngoại trừ một lớp váng bọt biển tả tơi trên mặt đại dương và không khí dường như quá nhiều ôxy, mọi thứ đều quằn quại và tuôn trào, như tuồng là rất lâu sau khi các đợt sóng đi qua vẫn còn khá nhiều năng lượng phóng ra. Vùng đất đằng sau chúng tôi bị che khuất một phần bởi hòn đảo và luồng hơi nước lạnh, thấp mà ánh nắng ban mai không xuyên qua nổi. Chẳng có gì sáng lên cả. Biển sâu như là không đáy vậy.
Chỉ khi con sóng đầu tiên trong đợt sóng mới kéo đến thì tôi mới nhìn thấy những gì thực sự ở đằng trước mình. Nó hiện ra dưới dạng một gờ sóng nhồi dựng đứng, nhưng chỉ sau vài giây gặp vùng nước cạn thì nó nở lớn lên khiến cho thể tích tăng lên gấp ba. Dưới chân của nó là hòn đá lớn mang tên vùng. Khối nước loạng choạng một lát, biến dạng đi khi va vào chướng ngại ngập chìm bên dưới. Con sóng chồm lên như thể đang trèo qua chỗ ùn tắc rồi lại oằn xuống một cách dữ dội trước khi cái mồm há rộng lao tới phía trước với một âm thanh khiến tôi muốn vãi ra quần.
- Mười lăm bộ - Loonie nói.
- Phải, ông Sando đáp. Và nó đổ vào một nơi chỉ có ba bộ.
Thật ra có những lúc con sóng vỗ vào những nơi chẳng hề có nước. Mỗi một đợt sóng tạo ra một ống khói hút lấy tất cả mọi thứ đằng trước rồi mới dập xuống, kéo đi thật nhiều nước khỏi hòn đá lúc nó cuộn mình lại, khiến cho cuối cùng khi nó ập xuống để vỡ ra thì mỏm đá hoa cương phơi ra trần trụi phía trước nó. Vào những lúc này, lòng trũng của con sóng thấp hơn cả mực nước biển. Đây là một cảnh tượng mà tôi chẳng bao giờ hình dung ra nổi, một thứ sóng nguy hiểm nhất tôi chưa từng thấy.
Chúng tôi chờ thêm một vài đợt sóng nữa rồi mới thả neo ở một quãng xa trước khi ông Sando lặn vào và dẫn chúng tôi ra. Cả ba tấm ván đều là những tấm Brewer - những tấm ván kiểu Hawaii dài và nặng. Đây là loại ván chúng tôi đã dùng ở Old Smoky. Ông Sando cứ luôn ca ngợi loại ván này rất tốt và chắc chắnể Ông vẫn giữ cách nói dẻo miệng đầy lôi cuốn của người quảng cáo hàng, nhưng tôi thì rầu rĩ lo sợ. Mỗi lần ông ta tìm cách nhìn tôi thì tôi lại lảng tránh, cứ bơi chèo không mấy tin tưởng cho đến khi ông vượt lên trước cùng với Loonie ở sát bên cạnh.
Họ ngồi cùng nhau bên ngoài vùng nước sủi bọt, còn tôi thì lơ lửng phía sau ở vùng nước sâu. Đằng sau chúng tôi, chiếc xuồng luôn lắc giật và biến mất đi sau mỗi đợt sóng nhồi. Những đợt sóng đến rồi lại đi, nhưng không có đợt nào được cưỡi. Những con sóng này khá lớn, nhưng ngay cả một nửa kích thước này tôi thấy đã là quá bất ngờ, dốc đứng, và hòn đá cạn phía dưới khiến cho chúng trở thành không tưởng tượng nổi. Quả thực đây là một cảnh tượng đáng sợ, nhưng toàn bộ khối nước này chỉ vỡ ra trên một một khoảng độ năm chục mét, không đáng để mạo hiểm. Tôi nhìn theo ông Sando và Loonie ở ngoài kia, ngay trong vùng ấy, họ cứ để cho các đợt sóng nối tiếp nhau đi qua, có vẻ như họ cũng đã miễn cưỡng đi đến cùng một kết luận như thế.
Thế rồi một con sóng lớn tràn qua và ông Sando xông ra đón lấy. Tôi nhìn thấy màu trắng bóng nơi hàm răng ông từ phía đằng xa trong khi ông ta cố gắng để có được tốc độ cần thiết. Một lát sau, con sóng đã dựng đứng lên và ông ta cũng thế. Khi ông đứng thẳng lên thì rõ ràng tấm ván quá lớn so với hình thù con sóng, ông phải xoay tròn nó một cách chậm chạp, khó khăn. Con sóng lộn lại từ trong ra ngoài. Ông Sando loạng choạng một lát, gần như ngã hẳn xuống, nhưng ông đứng lên được và xoay tấm ván Brewer quanh mình với một sức mạnh đáng khâm phục. Bánh lái đã có tác dụng… Ông trồi lên trước khi con sóng chòng chành rồi dãn rộng ra, bên dưới là vỉa đá ngầm sủi tăm rào rạt. Gờ sóng phủ lên trên ông. Ông ta biến đi một lát, thế rồi một đám bọt phun bắn ông ra và đi qua khỏi. Ông trượt vào trong vùng nước sâu đáng sợ phía trước tôi, và để cho tấm ván vuột khỏi tầm tay.
Tôi cố gắng bơi qua, tìm lại được tấm ván và kéo nó về chỗ ông đang nằm với hai đầu gối chống lên và cái đầu ngả ra đằng sau.
- Chúa ôi - Ông ta lẩm bẩm - Chúa ôi.
Tôi ngồi bên cạnh ông, giữ tấm ván lớn lại giữa hai chúng tôi. Ông ta từ từ lấy lại hơi thở bình thường nhưng con mắt hãy còn tròn xoe, ngơ ngác.
- Khi đi đón sóng - Ông nói - Thì phải đi rộng ra và đi thật sớm.
- Tôi không đi đâu - Tôi lẩm bẩm.
Ông ta lấy tấm ván của mình, kiểm tra bánh lái rồi ngồi lên trên.
- Chỉ có được nửa giây thôi - Ông ta nói - Thế là xong. Khủng khϊếp lắm.
Tôi lắc đầu.
- Pikelet, cứ làm đi. Cậu đã biết phải thế nào rồi.
- Thế nên tôi mới ở lại đây.
- Tôi dẫn cậu ra đây đâu phải để nhìn?
Tôi chẳng nói gì. Tôi cảm thấy rất sợ nhưng không phải là hoảng loạn; lần này tôi biết mình đang làm gì.
- Khỉ mốc - Ông ta nói - Mình tưởng là dẫn dân lướt sóng đi với mình, những con người không phải tầm thường chứ.
Tôi nhún vai.
- Pikelet, này bạn. Mình đến đây để chơi mà.
Ông nhoẻn miệng cười nhưng tôi cảm thấy như có một sự hăm doạ trong lời nói ấy. Tôi mặc kệ. Tôi đã quyết tâm. Ông chèo vòng quanh với vẻ khinh bỉ, rồi tôi nhìn thấy ông chèo trở ra chỗ Loonie đang hoa múa loạn xạ giữa những đỉnh sóng lờ mờ.
Khi ông Sando đến bên cạnh nó, Loonie hơi đứng thẳng người lên, như được tăng thêm sức mạnh nhờ sự có mặt của ông, và chỉ vài giây sau, nó đã ổn định. Những con sóng mà nó xông vào rất đáng sợ. Con sóng có hình lưỡi rìu và chồm lên ngay cả trước khi nó đi tới. Khi nó nhảy lên thì ta có thể thấy những gì sắp xảy ra. Thế nhưng vẻ kinh hoàng tiếp theo sau đó đủ đem lại cho Loonie một niềm vinh dự trong cái thất bại. Con sóng dừng lại, ngập ngừng rồi vỡ tan ra đúng lúc Loonie đang ở trên đỉnh cao của nó. Nó tiếp tục thu mình một cách tuyệt vọng, hướng tấm ván vào chỗ an toàn trong eo biển. Nhưng nó chẳng đi tới đâu được ngoài việc chúi xuống. Con sóng tan ra dưới chân nó, kéo luôn nó theo. Những tảng nước sủi bọt lớn tụ lại và phóng qua bờ vỉa đá ngầm. Tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy về Loonie là một cánh tay quẫy đập. Một nửa tấm ván của nó huơ qua huơ lại trên không khoảng gần một mét. Mỏm đá hoa cương của vỉa đá ngầm phơi bày hẳn ra trong một lúc lâu. Thế rồi tất cả khối nước vỡ tan ấy lao qua bên kia hòn đá, đẩy Loonie đi rồi, cuốn xoáy vào trong vùng sâu ngay phía trước tôi trong khi tôi cứ ngồi trơ ra đó. Không khí sôi lên xèo xèo, nước biển sủi bọt dưới chân tôi và tôi biết là Loonie đang ở dưới kia, đâu đó trong vùng nước trắng và đang vãi cả ra quần, nhưng tôi chẳng làm gì cả cho đến khi tôi nghe tiếng quát giận dữ của ông Sando.
Chỉ thấy một màu trắng xoá dưới kia. Nước chảy thành luồng cuồng loạn. Giống như nhắm mắt lao vào một đám đông người, tôi mò mẫm, chệnh choạng theo đường gấp khúc, chuyển hướng nhiều lần, cho đến khi nhìn thấy những hình thù màu xanh của nền biển bên dưới. Tôi lặn xuống lần nữa mà chẳng tới đâu cả. Trồi lên mặt nước, tôi nhìn thấy ông Sando cách đó mấy mét; thế rồi tôi nghe tiếng thở phì phò của Loonie, quay lại, tôi thấy cánh tay quơ lên của nó. Nó đang ở sau tôi hai chục mét, gần với chiếc xuồng hơn.
Khi chèo đến đó, tôi kéo nó lên tấm ván của mình, nó nôn ọe, rồi thở, rồi nôn một lúc nữa. Lưng nó phơi ra khỏi bộ đồ lặn và vai nó bị tróc da. Mũi nó chảy máu, hai chân run rẩy, nhưng khi ông Sando đi đến được chỗ chúng tôi thì nó cười khì.
Tôi bị giằng co cả ngày hôm ấy ở Nautilusề Khi bình tĩnh lại, tôi thấy rằng mình đã ngu ngốc đến đây để cố cưỡi một con sóng rất bất thường, rất nguy hiểm. Thành công ở đây thực ra có nghĩa là gì - phải chăng là 3 hay 4, thậm chí 5 giây cưỡi trên con sóng dị hình như một tượng đài của thành phố? Khó có thể gọi một cuộc leo trèo điên dại như thế là lướt sóng. Nhất định là còn có những con sóng đẹp hơn, to hơn để cho mình cưỡi thay vì cưỡi con sóng dị dạng này. Thế nhưng không thể kéo dài thêm nữa cái cảm giác thất bại mà mình đang nếm trải.
Hai người kia đã không nhắc đến chuyện đó. Cả ba chúng tôi tôn vinh giây phút gan dạ của Loonie, nhưng khoảng cách giữa họ và tôi như giãn ra thêm. Tôi khám phá ra rằng hễ ai do dự thì nhất định sẽ thất bại. Tôi bắt đầu cảm thấy rằng sự tế nhị của họ đối với tính nhút nhát của tôi chỉ khiến cho tình hình thêm tệ hại. Lúc đầu tôi cám ơn họ, nhưng ngay sau đó tôi muốn họ hãy nói thẳng ra tôi là thằng nhát gan, rồi thôi đi, đừng động tới nữaẻ Tôi ghét những cái nhìn dè dặt, sự ngưng bặt đột ngột trong cuộc nói chuyện khiến cho cái cảm giác bị giáng cấp của tôi càng thêm nặng nề.
Loonie và ông Sando dự tính những cuộc lướt sóng mới ở Nautilus. Sử dụng những tấm ván lướt ngắn hơn - chỉ hai tấm thôi - được thiết kế cho mục đích này. Chúng tôi chẳng bao giờ bàn tới chuyện tôi có đi cùng họ hay không. Lẽ ra tôi phải thấy nhẹ nhõm, nhưng tôi cứ thấy buồn bã khôn nguôi. Tôi biết bất cứ một con người có lý trí nào cũng sẽ hành động như tôi trong ngày hôm ấy. Nói chính xác, tôi chỉ là kẻ tầm thường.