Chương 25: THÀNH LONG ẨN
Phủ Tây Hồ nằm trên gò Phượng Chủy bên Hồ Tây. Gọi là Gò Phượng Chủy có nghĩa là vùng đất này như một bán đảo hình mỏ con chim phượng vươn ra giữa hồ. Phủ Tây Hồ tọa tại điểm chóp của gò Phượng Chủy đó. Phủ Tây Hồ thờ Liễu Hạnh Công Chúa. Tương truyền rằng Thánh Mẫu Thượng Thiên đã chuyển thế giáng phàm nhiều lần, mỗi lần giáng sinh thành một người khác nhau, với những cái tên khác nhau. Liễu Hạnh Công Chúa chính là tên của Thánh Mẫu Thượng Thiên trong một lần mà người chuyển thế giáng phàm vào khoảng cách đây bốn, năm trăm năm. Liễu Hạnh công chúa đã đi chu du khắp nơi, làm nhiều việc thiện, tu công, tích đức, khuyên răn con dân những điều phải trái. Nàng còn dạy con dân cách trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải. Mọi nơi, mọi miền trên đất nước Đại Việt khi đó đều in dấu ấn công đức của Liễu Hạnh Công Chúa, hầu như nơi nào cũng đều lập đền thờ nàng. Chính vì vậy mà sau này người ta thường đồng nhất Thánh Mẫu Thượng Thiên với Liễu Hạnh Công Chúa mà không hề biết rằng Liễu Hạnh chỉ là một kiếp chuyển thế của Mẫu Thượng Thiên mà thôi.
Khi ba anh em Minh đến được Phủ Tây Hồ thì cũng đã nửa đêm. Thế giới của người sống dần khép lại, nhường chỗ cho những người âm. Phủ Tây Hồ yên tĩnh đến lạ thường. Những hình con rồng, con phượng bằng gốm sứ nằm im lìm trên những mái đền cong vυ"t, thiu thiu ngủ trong khi những cơn gió Hồ Tây dào dạt thổi đến. Cửa đền đóng kín mít, có lẽ những gia nhân phục vụ trong đền cũng đã đi ngủ hết rồi. Phía trước mặt đền, ngay cạnh mặt hồ có một cây si cổ thụ, vươn tán lá xum xuê bao trùm cả một khoảng trời đất mênh mông vào lòng. Cây có bộ rễ rất lớn, những nhánh rễ phụ không ngừng vươn ra mọc bám xuống đất, lâu dần lại thành rễ chính. Bộ rễ của cây quyện vào nhau như một bức rèm lòa xòa kỳ lạ. Khi ba anh em Minh đang đứng ở giữa sân đền vắng lặng chưa biết phải làm gì thì cây si liên tục xao động rồi có một cái bóng từ từ bước ra. Đó là một âm hồn phụ nữ trung niên mặc một bộ áo tứ thân bằng giấy, đầu vấn khăn mỏ quạ. Cô ta thấy trong ba anh em Minh, một âm hồn đã kết hồn hạch màu trắng, một âm hồn có hồn hạch màu đỏ nhưng vẫn tràn đầy sinh khí, còn một người thì dường như chẳng phải âm hồn thì thấy lạ lắm, vội đến hành lễ, chào hỏi:
- Xin chào ba vị thí chủ, tôi là Kim Hoa, người hầu của Phủ. Xin hỏi ba vị thí chủ là ai và từ đâu đến?
Trần Phúc thấy cô Kim Hoa có tướng dữ, không đáng tin tưởng nên trả lời vòng vo:
- Chúng tôi là những âm hồn lãng du, nghe tiếng của quý phủ trên cõi âm đã lâu, nay muốn đến vãng cảnh. Quả thực Phủ Tây Hồ còn đẹp hơn cả những lời xưng tụng. Cảnh đẹp, linh khí linh thiêng quy tụ, chúng tôi mới chỉ vãng lai ở đây vài khắc mà đã cảm thấy hấp thụ được linh khí dồi dào như vài năm tu luyện. Đúng là không hổ danh là nơi tọa trấn của Thánh Mẫu Thượng Thiên.
Kim Hoa mới trả lời:
- Bẩm thí chủ. Nơi đây đúng là nơi tọa trấn của Thánh Mẫu. Tuy nhiên, từ xưa đến nay, Thánh Mẫu vốn ưa thanh tịnh, cho nên đặt ra một cái lệ là chỉ mở cửa ban ngày tiếp người dương thế đến hương khói, còn ban đêm thì đóng cửa, tránh các âm hồn đến quấy nhiễu. Nếu các vị thí chủ đến đây chỉ để vãng cảnh thì xin lỗi vì đã thất lễ, Kim Hoa này đành mời các vị thí chủ về cho.
Ba Khắc lên tiếng hòa hoãn đáp lại:
- Ấy Ấy. Kim Hoa cô nương, chúng tôi đều là những người lương thiện. Chúng tôi mến mộ địa linh, nhân kiệt của đền này nên mới đến đây. Địa linh thì chúng tôi đã chiêm ngưỡng rồi, nhưng còn nhân kiệt thì chưa được thỏa. Chúng tôi từ lâu vốn thờ Thánh Mẫu như mẹ, cả đời chỉ ao ước được gặp Thánh Mẫu một lần. Ấy vậy mà đi khắp nơi vẫn không thể biết Thánh Mẫu ở nơi đâu, chỉ sợ đến một lúc nào đó hóa kiếp mà vẫn chưa được gặp người. Vừa rồi tôi có nghe cô nương nói thì hình như Thánh Mẫu đang ngự tại đây. Không biết là những kẻ bần tiện chúng tôi có thể được diện kiến Thánh Mẫu trong đôi ba phút cho thỏa ước nguyện bình sinh hay không?
- Đúng thế, chúng em chỉ gặp Thánh Mẫu chút chút thôi rồi chúng em về mà. Thánh Mẫu nhân từ, độ lượng, chắc sẽ không nỡ từ chối những âm hồn từ phương xa đến như chúng em chứ. – Minh phụ họa theo
Cô Kim Hoa kia có vẻ nóng tính, thấy ba anh em Minh ăn mặc tuềnh toàng lại ngang bướng nói nhiều thì bặm môi lên, toan buông là những lời độc địa. Nhưng ngay lúc đó, từ phía cây si phía đằng sau đó, một giọng nói trầm khàn vang lên:
- Kim Hoa đừng thất lễ.
Rồi từ trong cây si, một âm hồn ông già, đan điền kết hồn hạch màu vàng, bước ra. Ông ta tuy già nhưng râu tóc vẫn xanh đen, lưng thẳng, tay chắp hờ hững phía sau. Mặt ông vuông vức, ngũ quan cân đối, trán cao và sáng, có khí độ của một kẻ trượng phu. Phong thái uy nghi của ông lão khiến ba anh em Minh bất giác trào lên một cảm giác muốn phục tùng.
- Lão phu là Phùng Khắc Khoan, là người thủ hộ phủ này. Lão phu thấy các vị thí chủ mỗi người đều có một nét kỳ quái riêng, đoán rằng không phải là nhân vật tầm thường, chắc không chỉ đến phủ này vãn cảnh. Các vị muốn gì xin cứ nói, Khoan ta sẽ cố gắng hết sức giúp đỡ?
Trần Phúc vẫn là kẻ mở lời đầu tiên:
- Xin hỏi đại nhân có phải là Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Phùng Khắc Khoan không ạ?
- Xưa kia quả đã từng có danh xưng ấy, nhưng ta vẫn thích người đời gọi ta là Trạng Bùng hơn.
Trần Phúc nghe xong giật mình, vội vái thật sâu. Minh thì nghe thấy ông ta là Lưỡng Quốc Trạng Nguyên, dù chưa biết là ai nhưng đoán là một đại nhân vật tiếng tăm lừng lẫy, nên cũng học tập Trần Phúc cúi xuống chắp tay chào. Chỉ có Ba Khắc là vẫn điềm nhiên.
Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan là một vị quan nổi tiếng thời Lê Trung Hưng, đã có công phù nhà Lê diệt nhà Mạc dành lại giang sơn. Năm sáu mươi chín tuổi, ông đi sứ sang nhà Minh, có công khôi phục lại quốc thể, lại tỏ được tài năng vượt trội khiến cho vua tôi nhà Minh đều thán phục, phong làm Trạng Nguyên. Cuộc đời ông toàn vẹn cả về tài năng chính trị lẫn trong thơ ca. Nhiều bài thơ do ông làm vẫn được truyền tụng đến ngày nay.
Trạng Bùng cũng chính là người lập ra Phủ Tây Hồ để thờ Liễu Hạnh Công Chúa. Tương truyền rằng ngày xưa, Liễu Hạnh Công chúa khi còn trẻ có đi ngao du sơn thủy, thấy cảnh đẹp của Hồ tây liền dừng lại, mở quán nước ở tại gò Phượng Chủy này. Một ngày, Trạng Bùng đi thuyền trên hồ, thấy cô hàng nước xinh đẹp liền vào trò chuyện. Hai người trò chuyện tâm đầu ý hợp, còn cùng nhau họa xướng, sáng tác bài thơ Tây Hồ Ngự Quán còn truyền đến ngày nay. Sau buổi trò chuyện, Trạng Bùng liền chia tay cô hàng nước trở về phủ của mình. Sáng hôm sau, quan Trạng nhớ đến cô hàng nước liền du thuyền đến gò Phượng Chủy tìm thì không thấy đâu nữa.Về sau, có âm hồn hiện về trong mơ mách bảo, Phùng Khắc Khoan mới biết đó là cô hàng nước xinh đẹp chính là Thánh Mẫu. Thì ra ngày mà Trạng Bùng hội ngộ với Liễu Hạnh cũng là ngày Liễu Hạnh tròn ba mươi tuổi, hết thời gian chuyển thế giáng phàm. Đêm hôm đó, Liễu Hạnh Công chúa giác ngộ được thân phận của mình, thoát xác phàm, hóa thành Thánh Mẫu Thượng Thiên thăng về Mẫu Phủ. Phùng Khắc Khoan tiếc thương, liền quyên tiền công đức lập lên phủ này.
Đó là câu chuyện của mấy trăm năm trước. Còn bây giờ, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan lại là âm hồn thủ hộ của phủ Tây Hồ. Trải qua mấy trăm năm, khí độ của ông vẫn hiên ngang uy lẫm như thời vẫn còn là một vị quan đứng đầu triều. Nhìn ông ta, Trần Phúc ấp ứng, nửa như muốn nói sự thật, nửa vẫn còn e dè chưa dám tin. Ông ta dường như hiểu được suy nghĩ của Trần Phúc liền bảo:
- Ở đây không tiện nói chuyện, mời các vị về thư phòng của tôi.
Ông ta ra hiệu cho ba anh em đi về phía cây si. Ba đứa không ngại ngần theo phía sau. Họ chui qua các tán lá rậm rạp và những chùm rễ lòa xòa của cây si. Khi vào đến bên trong, Trạng Bùng chạm vào một cái vết sẹo nhỏ hình cánh hoa trên vỏ cây rồi biến mất. Hiểu ý, ba anh em Minh cũng lần lượt đến, chạm vào cái sẹo đó rồi biến mất theo.
Ba đứa đi vào một không gian màu tím nhạt rộng độ khoảng một mẫu đất. Đó là thư phòng của Quan Trạng, bốn bề xung quanh treo la liệt những bức tranh thủy mặc đề những bài thơ bằng chữ nho. Quan Trạng mời ba đứa ngồi xuống, rót nước trà cho khách rồi nói:
- Ta nhìn ba vị thí chủ nét mặt hiền từ, lại hào hiệp trượng nghĩa, chắc chắn không phải là kẻ xấu. Hơn nữa, các vị mặc dù nói là đi ngắm cảnh nhưng lại không giấu được vẻ lo toan, bồn chồn, nhất là vị công tử tuấn mỹ này – Ông ta chỉ vào Ba Khắc –Ta đoán các vị đang phải có việc cực kỳ hệ trọng nên mới dám phá lệ đi vào Phủ Tây Hồ vào ban đêm như thế này.
- Đúng là chúng tôi có việc cực kỳ hệ trọng. Xin ông cho chúng tôi được gặp Thánh Mẫu. – Ba Khắc nói ngay.
- Thánh Mẫu đâu phải là người mà các vị có thể gặp tùy tiện. Với lại Thánh Mẫu hiện không có ở đây. Không giấu gì các vị, bản thân ta cũng đã không được gặp Thánh Mẫu hơn hai mươi năm rồi.
- Sao lại thế được? Chẳng phải cách đây một tháng, Kim Ngưu hồn khổng lồ đã phủ phục quỳ lạy trước bàn thờ của Thánh Mẫu sao? Nếu không phải Thánh Mẫu hiển linh thì sao nó lại làm như vậy? – Ba Khắc phân trần.
Nghe đến thế, Phùng Khắc Khoan bỗng nghiêm nét mặt, ông ta nhìn chăm chăm vào Ba Khắc rồi đập tay xuống bàn quát:
- Đây là chuyện tuyệt mật của Mẫu Phủ. Sao các ngươi lại biết về việc đó? Nói.
Giọng của ông không lớn nhưng sang sảng và cực kỳ uy nghiêm khiến ba người không khỏi cảm thấy có chút sợ hãi. Tuy vậy, Minh vẫn lớn tiếng phản pháo lại:
- Ông cũng đâu có tiết lộ cho chúng tôi cái gì. Sao chúng tôi phải nói cho ông biết?
Trần Phúc thấy không khí có chừng căng thẳng, không tốt chút nào liền khẽ véo Minh một cái để cậu bớt nóng rồi ngọt nhạt nói với Quan Trạng:
- Chúng tôi biết được tin này do một người bạn tiết lộ, người đó chỉ cho chúng tôi đến đây. Xin ông thứ lỗi chúng tôi không thể nói tên người bạn đó được.
Quan Trạng nhìn ba người, suy tư một lúc lâu rồi đáp:
- Xem ra các ngươi có mối quan hệ rất thân thiết với gia tộc họ Phạm. Thôi được rồi. Ta cũng mở bài với các ngươi. Hy vọng các ngươi có thể thành thật. Đúng là một tháng trước, Kim Ngưu hồn khổng lồ có đến quỳ lạy trước bàn thờ của Thánh Mẫu. Tuy nhiên, nó không phải đến để bái lạy người, mà nó đến để ... khóc. Nó khóc nguyên một đêm rồi mới lặn trở lại hồ.
- Sao con trâu đó lại khóc ạ? – Minh tò mò hỏi.
Quan Trạng thở dài một tiếng, đứng dậy đi lòng vòng rồi mới nói:
- Thánh Mẫu gặp nạn. Kim Ngưu hồn đến để báo tin cho chúng ta. Nó vốn được Thánh Mẫu nuôi từ xa xưa nên có cảm ứng liên thông với người. Tuy nhiên, mối cảm ứng của nó với Thánh Mẫu không được liền mạch nên chúng ta không có cách nào lần ra người đang ở đâu cả.
Cả ba anh em Minh đều bàng hoàng và không tưởng tượng điều gì đang xảy ra.
- Sao Thánh Mẫu lại gặp nạn được chứ? Chẳng phải bà ấy là người mạnh nhất cõi âm này sao? – Minh hỏi.
- Vì người đang chuyển thế giáng phàm. Khi chuyển thế, người chẳng khác gì người thường cả. – Quan Trạng đáp.
Nét mặt của Trạng Bùng hiện lên vẻ buồn rười rượi khiến ba anh em Minh không thể không tin. Với lại một nhân vật đức cao vọng trọng như vậy thì không có lý do gì kể một câu chuyện động trời như vậy chỉ để lường gạt ba người cả.
- Mong các ngươi đừng có tiết lộ thông tin này ra bên ngoài, kẻo cõi âm này sẽ náo loạn mất. Nhớ đấy. Không được phép nói ra bên ngoài – Trạng Bùng gằn từng chữ một nhắc nhở. – Với lại, ta đã nói hết chuyện các ngươi cần biết. Hy vọng các ngươi sẽ nói cho ta biết câu chuyện của các ngươi. Ta có cảm giác rằng câu chuyện của các ngươi có liên quan đến việc Thánh Mẫu gặp nạn và sẽ mở ra nút thắt để chúng ta tìm được người.
Ba anh em Minh nhìn nhau, đứa này hỏi ý kiến người kia qua ánh mắt. Cuối cùng, Minh là người bộc trực nhất chẳng đợi hai anh mình cho phép đã lên tiếng nói. Cậu không tin người đã từng là Lưỡng Quốc Trạng Nguyên lại đi làm cái trò mèo phản bội lại Mẫu Phủ:
- Chúng tôi tìm Thánh Mẫu sở dĩ là để báo cho người biết Quan Hoàng Mười Một đã phản bội người để đi theo Cao Biền. Đầu mối liên lạc giữa hai kẻ đấy là một tên đạo sĩ có tên Vương Kiên. Chúng dường như muốn lật đổMẫu Phủ.
- Không thể nào.
Trạng Bùng gầm lên một tiếng, tay đấm vào chiếc bàn khiến nó tan ra thành bụi phấn. Uy phong trong ông bùng phát như một con hổ buổi trưa. Mặc dù ông không quá mạnh nhưng cái khí khái át vạn người của ông đủ để ba anh em Minh phải tự nhiên lui lại một bước.
- Nói ta nghe vì sao các ngươi lại nhận định như thế.
Ba anh em Minh lần lượt kể lại mọi chuyện cho Trạng Bùng nghe, bắt đầu từ việc Vương Kiên đến đại náo núi Yên Tử, bắt Minh đi theo, sau đó Minh và Ba Khắc chạy trốn đến thành Bạch Tượng Thăng Thiên, rồi chuyện Trần Phúc bị mưu hại, suýt chút nữa bị hỏa thiêu, và cuối cùng mọi người đã chạy trốn khỏi ngục giam bằng than đá của Quan Hoàng Xểnh như thế nào.
- Ngươi nói là các ngươi đã gặp một người tên là Dã Tượng, còn được ông ta tặng cho một con ngáo ộp nữa phải không? Có thể cho ta xem nó được không?
Minh lấy con ngáo ộp vẫn ở yên trong túi mình ra. Nó bé được thu lại bé tí ti, nằm gọn trong bàn tay cậu và có vẻ cáu kỉnh khi bị cậu làm cho thức giấc. Trạng Bùng không để ý đến con ngáo ộp mà chỉ mân mê cái lục lạc đeo trên cổ con quái vật. Ông ta có vẻ xúc động mạnh:
- Vậy là lão già ấy vẫn chưa hóa kiếp. – Trạng Bùng bất giác than thở.
- Ý ông là ông lão Dã Tượng ấy á? – Minh hỏi lại.
- Không. Không có gì. – Trạng Bùng lảng tránh, rồi ông nói tiếp. – Ta tạm tin câu chuyện mà các vị kể. Tuy nhiên chuyện này cực kỳ hệ trọng, ảnh hưởng đến uy tín của một đại nhân vật trong Mẫu Phủ, ta cần phải đi xác minh lại. Các vị có thể ở đây ít hôm nếu cần, ta bảo đảm sự an toàn cho các vị.
Trần Phúc đáp lại:
- Không dám làm phiền Quan Trạng. Chúng tôi là kẻ lang bạt, vốn không thích gò bó một chỗ. Hôm nay chuyện cơ mật đã nói hết cùng với nhau, ngày sau nếu có cơ hội xin cùng hẹn nhau hành động, tiễu trừ kẻ phản bội. Quan Trạng cũng cần thận trọng kẻo trong Phủ của mình có nội gián. Còn bây giờ chúng tôi xin được cáo từ.
Ba anh em cùng đứng dậy, từ tạ Trạng Bùng rồi ra đi, Quan Trạng tiễn ba người đến tận cổng rồi mới quay trở lại. Còn lại ba người với nhau, Ba Khắc mới hỏi:
- Liệu có thể tin được lão già ấy không?
Trần Phúc đáp:
- Xưa kia Trạng Bùng là một đại nhân vật khí phách cương nghị, đã từng một mình xông pha tử cấm thành ở bên Tàu, đối đáp thẳng thừng với Hoàng đế bên đó khiến cho họ phải tâm phục, khẩu phục nhân tài nước nam ta. Hơn nữa, ông ta lại có duyên tình sâu nặng với Liễu Hạnh Công Chúa. Người như vậy, chúng ta có thể tạm thời tin tưởng được.
- Đúng đúng đó. Em nhìn hai hàng lông mày của ông ta to và sắc như hai thanh gươm ấy, chắc không thể nào lại đi lòe chúng ta đâu.
Ba Khắc mới gõ vào đầu Minh:
- Em ấy. Học được nghề xem tướng từ bao giờ thế. Mà có thích đi chơi thành Long Ấn không? Chúng ta dẫn đi.
- Có chứ. Đi chứ. Các anh mà không cho em đi, em sẽ ngồi ăn vạ ở đây. – Minh mè nheo.
Lúc đó cũng khoảng hai, ba giờ sáng, ba đứa đi đến một quãng vắng bên cạnh hồ, nơi mà đèn đường không chiếu đến. Trần Phúc bảo Minh lấy con ngáo ộp ra, niệm chú cho nó lớn trở lại như cũ, rồi ra lệnh cho nó bơi ngửa trên mặt hồ. Con ngáo ộp to béo, thịt nhiều, nổi lềnh bềnh trên mặt hồ, hai cánh tay của nó quạt quạt còn khỏe hơn cả chân vịt của một con tàu tầm trung. Ba đứa cùng nhau nhảy lên trên con bụng con ngáo ộp để bơi ra giữa hồ. Khi bơi cách bờ khoảng độ hai chục mét, Minh bắt đầu cảm nhận thấy một lực hút mênh mông từ bên dưới lòng hồ phát ra. Cùng với đó, từ bên trên, linh khí từ bốn phương tám hướng ào ào ép xuống dưới khiến con ngáo ộp phải vất vả lắm mới không bị nghiêng ngả. Càng đi ra giữa hồ, lực hút càng lúc càng mạnh, lực đè ép từ phía trên càng lúc càng lớn.
- Chúng ta cứ đi trên hồ như thế này ạ? Thành Long Ẩn ở đâu hả anh? – Minh hỏi.
- Lối vào thành nằm ở giữa hồ, nó chỉ mở vào giờ Mão và không cố định vị trí. Chúng ta cứ dò theo khu vực nào có nồng độ linh khí lớn nhất thì đến. Hy vọng có thể tìm được lối vào thành trước khi nó khép lại, không thì phải đợi đến đêm mai. – Ba Khắc trả lời
Ba đứa phải mất khá nhiều thời gian để dò lối vào thành Long Ẩn. Khi ra đến giữa hồ, Minh thấy có rất nhiều âm hồn khác cũng chèo thuyền làm bằng giấy, đi tìm lối vào như bọn cậu. Khi thấy "con thuyền" kỳ dị của bọn Minh, họ đều dạt hết ra, "tránh voi chẳng xấu mặt nào". Tuy vậy, cũng có âm hồn chẳng biết sợ hãi gì cả, họ cố lái sát vào bọn cậu để ngắm cho kỹ con ngáo ộp rồi hỏi thăm này nọ. Trong số đó có một chàng trai gầy gò, nhỏ bé, chưa kết hồn hạch, chèo trên một cái mủng bằng giấy. Chàng ta niềm nở bắt chuyện với bọn Minh:
- Các anh trai, em làm nghề ở trên mặt hồ này đã lâu rồi mà bây giờ mới thấy có một con thuyền ấn tượng như các anh trai đó. Ý. Nó có phải là một con vật sống không?
Thấy chàng trai đó hao hao tuổi mình, Minh cũng vui vẻ trêu đùa:
- Nhìn có ngầu không? Du thuyền hạng sang nhập khẩu từ bên Mỹ về đó.
- Ồ thật à? Các anh chắc phải lắm tiền lắm mới mua được cái thuyền như thế, tự động chèo mới ác chứ. – Chàng trai kia cảm thán. – Mà các anh trai đang đi tìm lối vào thành Long Ẩn phải không? Các anh có muốn thuê người dẫn đường không? Em làm nghề chèo thuyền dẫn đường cho khách trên hồ này đã bao mươi năm rồi, ngõ ngách nào em cũng biết. Các anh thuê em đi, em lấy rẻ cho.
Ba anh em Minh im lặng chần chừ. Thấy vậy, chàng trai kia càng cố chèo kéo:
- Nhanh lên các anh trai ơi. Chỉ khoảng mười, mười lăm phút nữa là lối vào thành đóng lại đó, các anh không nhanh lên thì lại đợi đến mai. Em thấy các anh đều là những người hào hoa giàu có, lẽ nào lại chút ít tiền dẫn đường. Em chỉ lấy ba trăm đồng thôi. Nếu các anh cho em chạm vào cái thuyền kia một lần thì em chỉ lấy rẻ hai trăm thôi.
Trần Phúc ngẫm nghĩ cân nhắc một chút rồi ném ở trong túi áo ra bốn xâu tiền, ném cho chàng thanh niên lẻo mép kia:
- Bốn trăm đồng. Dẫn bọn ta đến cổng vào ngay.
Chàng trai kia bắt lấy xâu tiền, đếm từng đồng một trước khi đút vào túi áo giấy, rồi y cười hì hì:
- Đúng là quý nhân, đêm nay em đã đoán là kiểu gì cũng gặp quý nhân rồi mà. Các anh trai đi theo em, nhanh lên, cổng vào chỉ cách đây một cây số thôi. Thời gian gần đây, người trên dương thế họ có nhiều máy móc dò tìm lắm, nên thành Long Ẩn phải ngụy trang cổng vào kỹ hơn, nếu không có người dẫn đường các anh trai còn lâu mới tìm được. Các anh trai xem cái lũ bủn sỉn kia kìa – Chàng trai chỉ về những âm hồn khác cũng đang dò tìm cổng vào ở phía xa xa – cứ như bọn chúng thì chẳng bao giờ tìm được đường vào thành đâu, lại chỉ mất công chèo đi chèo lại thôi. Đúng là bọn cứt sắt, đâu có được hào phóng như các đại ca đây.
- Này cậu bé. Ngươi tên là gì? Đến từ đâu? – Ba Khắc hỏi nó.
- Anh trai ơi. Em tên là Huy, nhưng anh có thể gọi em là Tồ nếu muốn. – Thằng bé bắt đầu liến thoắng – Em là người Hà Nội gốc. Gốc xịn chứ không phải lai tạp như mấy đứa hay khoe khoang đâu. Cả bố và mẹ em đều là người Hà Nội, rồi thì ông bà, cụ, kị cũng đều Hà Nội hết. Chẳng mấy ai thuần chủng Hà Nội như em được đâu. Em sống cách đây bốn mươi năm ở trên phố Đồng Xuân và chết đi khi quân Mỹ ném bom vào Hà Nội. Em đang đi đưa cơm cho bố, bố em trong quân đội, đang chực bên tên lửa. Hôm đó trời rất đẹp, rất xanh, chim chóc hót líu lo. Thế rồi kẻng báo động vang lên. Em chưa kịp chạy thì viu một cái, bom đã nổ ngay sát phía bên cạnh. Em phải mất một lúc mới biết là mình đã chết. Ngoảnh ra bên cạnh thấy hàng trăm hồn khác cũng ngơ ngác giống mình. Chà. Hàng của bọn Mỹ cái gì cũng tốt. Bom của nó làm chết hàng trăm người, du thuyền của nó không cần chèo, không cần máy cũng tự quạt được. Hồn em luẩn quẩn bên bố mẹ, sau bốn mươi chín ngày thì có người của Thăng Long Tứ trấn đến đưa em đi ra ngoài thành, đến đây và chỉ được về thăm bố mẹ mỗi năm một lần. Nhưng mà từ khi tìm được chỗ ở trong thành Long Ẩn, em chẳng thiết gì về nhà nữa. Thành Long Ẩn là nhà của em. Em sẽ chẳng đi đâu quá thành mười cây số cho đến khi hồn em hóa kiếp...
Tồ cứ liên lu bất tận như thế mãi không ngớt cho đến khi nó dẫn ba đứa Minh đến gần một cái xoáy nước. Xoáy nước này rất nhỏ và mờ nhạt, nếu nhìn từ xa mà không chú ý thì chẳng thể nào phát hiện ra được. Nồng độ linh khí ở đây cũng không cao như Ba Khắc nói, có lẽ nó đã được người ta cải tạo để tránh bị người trên dương thế phát hiện ra trong thời đại mà công nghệ của họ phát triển như vũ bão. Khi chuẩn bị đi vào xoáy nước, thằng bé ra hiệu cho ba người:
- Các anh trai nhớ bám thật chắc đó nhá, cái du thuyền đó không có thành, cẩn thận bị văng ra ngoài đó.
Quả đúng như vậy, khi con ngáo ộp bơi vào trong xoáy nước, lập tức từ mặt nước bên dưới xuất hiện một hố đen, hút cả con ngáo ộp và ba anh em Minh vào. Minh cảm thấy mình như bị rơi vào trong một vực thẳm không thấy đáy, bốn bề tối đen hun hút. Và vì chủ quan không bám chặt vào con ngáo ộp mà Minh bị văng ra. Nếu như không có cái đuôi dài ngoằng của Trần Phúc kéo lại thì cậu không biết là mình bị văng đi đâu nữa. Ba đứa cứ rơi tự do như thế trong thời gian dài đằng đẵng khiến cho Minh có cảm giác như mình đang rơi thẳng xuống địa ngục hoặc nếu không phải như thế thì chí ít cũng đang rơi thẳng sang châu Mỹ ở bờ bên kia trái đất. Rồi đột nhiên, không gian xung quanh bừng sáng, Minh chưa kịp nhìn thấy gì xung quanh thì đã rơi ùm xuống một cái hồ. Kỳ lạ là mặc dù rơi rất lâu nhưng cú tiếp nước xuống bên dưới thì lại rất nhẹ nhàng giống như cậu chỉ mới rơi từ độ cao nửa mét xuống mặt nước vậy.
- Oa. Thật là hùng vĩ.
Minh không thể ngăn mình thốt lên khi chứng kiến cảnh vật xung quanh. Trên đầu cậu là một bầu trời màu tím hồng trong vắt không một chút gợn. Vòm trời cao và xa không thua kém gì bầu trời bên ngoài. Bầu trờicực kỳ rộng lớn, kéo dài xa tít tắp đến mức Minh không nhìn thấy giới hạn của ở đâu. Màu tím hồng trong như ngọc, hoặc cũng có thể nó được làm từ một loại ngọc đặc biệt mà cậu chưa từng nhìn thấy. Bầu trời in trên nền đất phía dưới. Màu tím hồng dìu dịu, có đôi phần hơi buồn bã đó chiếu rọi khắp nơi. Màu nước tím hồng, màu đất tím hồng, màu da mặt của Ba Khắc cũng là tím hồng, nét vẻ đăm chiêu của Trần Phúc cũng tím hồng và cả hàm răng lố nhố không đều của Tồ cũng tím hồng. Minh cảm giác như mình đang được ngâm trong một dung dịch đặc sệt màu tím hồng chứa trong một cái bình cũng màu tím hồng.
- Xin chào mừng các anh đã đến với thành Long Ẩn, kỳ quan độc nhất vô nhị trong toàn cõi Việt Nam này. – Tồ đứng trên cái mủng của nó, toe toét chào mời. – Thành Long Ẩn này vuông chằn chẵn như một cái ấn, mỗi chiều năm mươi cây số, được lập ra bởi các vị Thánh Mẫu cùng thời điểm mà vua Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long. Thành Long Ẩn này được coi là gốc rễ nền tảng của nước Việt. Nếu thành còn thì nước Việt không bao giờ mất, còn nếu thành bị hủy, thì nước Việt chẳng còn. Trong thành có rất nhiều danh lam, thắng cảnh in dấu nền văn hóa từ nghìn xưa đến nay. Nếu các anh trai muốn có người hướng dẫn tham qua thì em xin lấy giá hữu nghị cho.
Trần Phúc nhăn mặt nói với Tồ, cố l*иg một chút uy lực vào giọng nói:
- Chúng ta không cần ngươi dẫn đường. Việc của ngươi đến đây là hết. Xin hãy đi cho.
- Ấy ấy. Các anh đừng nghĩ là đi lại trong thành Long Ẩn này dễ nhé, thành rộng mênh mông, nếu không có người dẫn đường, các anh dễ bị lạc lắm. Thành cũng cấm phi hành trên không, nếu... - Tồ vẫn cố chèo kéo.
- Để chúng ta yên.
Trần Phúc gằn từng tiếng một. Cuối cùng, Tồ cũng chịu buông tha cho mấy người. Trước khi chèo mủng đi, nó còn bĩu môi, nói thầm một câu mà Minh vẫn có thể nghe rõ: "Người đâu, nhìn thì nho nhã thư sinh mà hung dữ như bọn giang hồ".Sau khi Tồ đi được một lúc, không gian dần im ắng trở lại, ba anh em mới nhìn nhau phá lên cười.
- Nếu em Phúc không cứng rắn thì khéo chúng ta phải rút hết hầu bao cho hắn mất. – Ba Khắc tếu táo. – Rồi sau khi đi tham quan thành Long Ẩn, hắn sẽ lại giới thiệu cho chúng ta bao nhiêu dịch vụ mới của hắn, và dịch vụ nào hắn cũng sẽ lấy rẻ rẻ thôi.
- Ôi, hắn làm em váng hết cả đầu. Cứ như một cái máy nói không biết nghỉ. – Minh góp thêm.
- Quan trọng là em cảm thấy hắn có điều gì đó không được ổn lắm. Mà cũng có lẽ em suy nghĩ quá nhiều. Nào, anh em chúng ta cùng vào thành Long Ẩn này xem nó thay đổi như thế nào rồi nào. – Trần Phúc hô hào.
Minh ra hiệu cho con ngáo ộp bơi vào trong bờ. Cái hồ này rộng tương đương với Hồ Tây, con ngáo ộp phải quạt mỏi tay mới tới. Thành Long Ẩn hiện ra trước mắt Minh như một chàng trai đỏm dáng đang cố khoác trên mình những chiếc áo đẹp và lòe loẹt nhất để lấy lòng cô bạn mà anh ta thích. Trong cái váng màu tím hồng của bầu trời, những dãy nhà đủ màu sắc, đủ hình dáng trải rộng ngút ngàn bên một bờ cảng vòng cung. Càng đến gần bờ, Minh cảm giác như mình như một con kiến bé tí lạc đến cổng nhà trời. Nếu như không có hai người anh dày dạn sa trường bên cạnh, Minh sẽ ngồi bịch xuống, trái tim sẽ đập thình thịch và đôi mắt sẽ mở to, không phải vì thích thú mà vì quá sợ hãi trước những điều quá lạ lẫm.
Khi đến cách bờ khoảng một trăm mét, Trần Phúc bảo Minh thu con ngáo ộp lại để tránh ánh mắt nhòm ngó của người đời rồi lấy ra một chiếc thuyền giấy thế vào. Khu cảng này có rất nhiều thuyền bè, giao dịch tấp nập, phần lớn chúng đều bằng giấy, nhưng cũng có loại làm bằng gỗ, nhưng chỉ là loại gỗ tạp làm từ những thứ cây tầm thường. Các âm hồn đi lại tấp nập trên cảng và chẳng có ai chú ý đến Trần Phúc cả. Ở chốn địa linh nhân kiệt như thế này, những âm hồn kết được hồn hạch màu trắng cũng chẳng hiếm hoi đến mức người ta phải e dè cả.
Ba đứa Minh đi lên một con đường cái cạnh cảng, xen lẫn giữa dòng người đi lại tấp nập. Con đường mà ba người đang đứng phải rộng đến năm chục mét, kéo thẳng tắp như một đường kẻ vào tận sâu phía bên trong, đến nỗi mà Minh không thể nhìn rõ được điểm cuối của nó ở đâu nữa. Con đường được lát bằng một thứ đá màu xám, trong và chẳng tìm thấy một chút trầy xước cũng như bám bụi, giống như một sân trượt băng vậy. Nhà cửa hai bên chật như nêm với đủ loại kiến trúc, lắng đọng nhiều lớp trầm tích văn hóa của các thời đại khác nhau. Những ngôi nhà cổ kính, lâu năm thì đều chủ yếu là cột, thấp lè tè, bên trên lợp ngói âm dương, mái dốc xuống và phần chóp mái cong vυ"t lên với những hình rồng chạm khắc tinh tế. Những ngôi nhà niên đại gần hơn một chút thì được xây cao hơn, thậm chí còn được chồng thành hai, ba tầng, mái ngói bớt cầu kỳ hơn, cột kèo cũng thưa hơn. Cuối cùng là những ngôi nhà thời hiện đại, dường như mới được xây trong vòng trăm năm gần đây, với đủ kiểu hình dáng: nhà cổ thời pháp, nhà mái ngói thời hiện đại, nhà ống, nhà cao tầng, vila, biệt thự đủ cả. Tuy vậy, các ngôi nhà đều có một đặc điểm chung là đều được xây bằng một loại đá trong như đá mã não với năm màu cơ bản là nâu, vàng, tím hồng, xanh lơ và trắng xám. Tất cả chúng đều sạch bóng như lau, kể cả những ngôi nhà cổ kính, cũ kỹ, nhìn lụp xụp nhưng vẫn rất sạch sẽ. Có vẻ như ở trong thành Long Ẩn này, loại đá ngọc này rất sẵn, cư dân chỉ việc đến xẻ, mang về để xây nhà thôi.
Trên đường, các âm hồn đi lại rất đông đúc, chẳng khác gì những con phố nhộn nhịp bên cạnh Hồ Tây cả. Họ chủ yếu là đi bằng xe ngựa kéo được làm bằng giấy do người sống cúng tiến. Đường phố rất hiếm người đi bộ. Dường như ở chốn trung tâm của cõi âm này, ai cũng giàu có cả. Những bộ quần áo mà họ mặc được cắt may, tỉa tót rất cầu kỳ, thậm chí còn khá thời thượng và được làm bằng thứ giấy rất sang trọng, bền chắc. Ở nơi này, các âm hồn hình thành nên một gu ăn mặc riêng. Các quý bà thường mặc những chiếc váy cách điệu từ áo tứ thân với hai vạt trước và sau mang những màu sắc khác nhau, che kín ngực, phần chân váy thì cao ngang đầu gối đủ để khoe những bắp chân tròn lẳn mà vẫn bảo đảm sự kín đáo. Những cô thiếu nữ ăn mặc bạo dạn hơn một chút, chiếc váy kéo trễ xuống vai và chân váy thì cao hơn đầu gối một chút. Các thiếu nữ đều có một phong thái trầm mặc, ít nói, chứ không lộn xộn, láo nháo như những ngôi làng cõi âm khác. Họ luôn bẽn lẽn mỉm cười, tạo cho người khác cảm giác thương mến những cũng rất khó tiếp cận.
- Đúng là chốn kinh kỳ, người đẹp, phong thái lại nhu mì, làm người ta chết mê chết mệt đi được.
Ba Khắc ngớp mắt lên nhìn các cô gái không chớp. Một số cô gái nhìn thấy điệu bộ của Ba Khắc thì cười khúc khích, một số bạo dạn, đánh mắt nhìn lại. Nếu như Trần Phúc không tìm cách kéo Ba Khắc đi, chắc anh ta sẽ quên hết tất cả mọi thứ mà đi theo các cô gái kia mất.