Chương 6: Quyển 3 Ii. Phẩm Học Quán 01

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn biết các thế giới: Như là Thiên-ma-phạm, như là các Sa-môn, như là Bà-la-môn, như là Kiền-đạt-phược, như là A-tố-lạc, như là các Thần rồng, như là các chúng đại Bồ-tát những vị ở thân sau cùng, nối ngôi vị Phật; ngoài ra, còn có tất cả người chẳng phải người, có duyên đối với Pháp, đều đã tập hộp, liền bảo Cụ thọ Xá Lợi Tử: Nếu đại Bồ-tát, đối với tất cả pháp, muốn giác ngộ cùng tột tất cả tướng, nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Xá Lợi Tử nghe Phật nói rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vui mừng nhảy nhót, đi đến trước Phật, đầu lạy hai chân Phật, phủ kín vai bên trái, gối phải quỳ xuống đất, chấp tay cung kính bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát, đối với tất cả pháp, muốn giác ngộ cùng tột tất cả tướng, phải học Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế nào?

Phật bảo Cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát nên lấy vô trụ làm phương tiện, để an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì sở trụ, năng trụ đều không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát nên lấy vô xả làm phương tiện, để hoàn thành Bố thí Ba-la-mật-đa; vì người cho, kẻ nhận và vật cho, đều không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát nên lấy vô hộ làm phương tiện, để hoàn thành tịnh giới Ba-la-mật-đa; vì cái tướng phạm, không phạm đều không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát nên lấy vô thủ làm phương tiện, để hoàn thành an nhẫn Ba-la-mật-đa; vì tướng động, không động đều không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát nên lấy vô cần làm phương tiện, để hoàn thành tinh tấn Ba-la-mật-đa; vì thân tâm siêng, lười đều không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát nên lấy vô tư làm phương tiện, để hoàn thành tịnh lự Ba-la-mật-đa; vì có thiền vị, không có thiền vị đều không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát nên lấy vô trước làm phương tiện, để hoàn thành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì tánh, tướng của các pháp đều không thể nắm bắt được.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, để hoàn thành: Bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi giác ngộ, tám chi thánh đạo; vì ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, đều không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, để hoàn thành pháp môn không giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát; vì ba môn giải thoát này, đều không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, để hoàn thành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định; vì tịnh lự, vô lượng, vô sắc định đều không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, để hoàn thành tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; vì giải thoát, thắng xứ … cho đến biến xứ đều không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện, để hoàn thành chín tưởng là Tưởng phình bụng, tưởng chảy mủ, tưởng đỏ bầm, tưởng tím xanh, tưởng chim mổ nuốt, tưởng tan rã, tưởng bộ xương, tưởng thiêu đốt, tưởng tất cả thế gian không thể bảo tồn được; vì các tưởng ấy, đều không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, để hoàn thành mười tùy niệm, đó là Tùy niệm Phật, tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng, tùy niệm giới, tùy niệm xả, tùy niệm thiên, tùy niệm nhập xuất tức, tùy niệm yểm, tùy niệm tử, tùy niệm thân; vì các tùy niệm này, không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, để hoàn thành mười phép quán tưởng đó là: Quán tưởng vô thường, quán tưởng khổ, quán tưởng vô ngã, quán tưởng bất tịnh, quán tưởng chết, quán tưởng tất cả thế gian không có gì thích thú, quán tưởng nhàm chán ăn uống, quán tưởng dứt trừ, quán tưởng xa lìa, quán tưởng tiêu diệt; vì các quán tưởng này, không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, để hoàn thành mười một trí, đó là Trí biết khổ, trí biết tập, trí biết diệt, trí biết đạo, trí dứt phiền não, trí chứng vô sanh, trí biết pháp, trí phân loại pháp, trí thế gian, trí biết tâm kẻ khác, trí biết đúng lời Phật dạy; vì các trí ấy không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên hoàn thành định có tầm có từ, định không tầm chỉ có từ, định không tầm không từ; vì ba cảnh định ấy không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên hoàn thành điều chưa biết nên biết, biết rõ điều đã biết, biết đủ điều đã biết; vì các điều ấy không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên hoàn thành quán bất tịnh, quán không gian vô biên, trí hơn tất cả trí, định, tuệ; vì năm thứ ấy không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên hoàn thành bốn điều nhϊếp phục, bốn nơi an trú thù thắng, ba loại minh, năm thứ mắt, sáu loại thần thông, sáu phép ba la mật; vì sáu thứ ấy không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên hoàn thành bảy pháp giúp thành Phật, tám điều giác ngộ của đại sĩ, chín loại trí của chín loài hữu tình, pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; vì năm loại ấy không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên hoàn thành mười địa vị tu hành, mười hạnh tu hành, mười điều nhẫn nhục, hai mươi niềm vui tu hành thăng tiến; vì bốn thứ ấy, không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên hoàn thành mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp chỉ Phật riêng có, ba mươi hai tướng của bậc đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp kèm theo; vì sáu loại ấy, không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên hoàn thành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, trí biết tất cả, trí biết tướng đạo, trí biết tất cả tướng, trí biết tất cả sự mầu nhiệm của tướng; vì sáu pháp ấy, không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên hoàn thành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và vô lượng vô biên pháp Phật khác; vì các pháp ấy, không thể nắm bắt được.



Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát muốn mau chứng trí vượt hơn tất cả trí, nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu Các đại Bồ-tát muốn mau hoàn thành trí biết tất cả, trí biết tướng đạo, trí biết tướng tất cả, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn mau hoàn thành trí biết tướng về tâm hành của tất cả hữu tình, trí biết sự mầu nhiệm của tướng, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn bứng gốc phiền não và thói xấu nhiều đời, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn lìa phiền não, vào Niết-bàn của Bồ-tát, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn vượt khỏi bậc Thanh văn và Độc giác, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn an trú ở bậc không thối chuyển của Bồ-tát, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn chứng sáu phép thần thông nhanh chóng, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn biết sự sai khác về tâm hành và chỗ đến của tất cả hữu tình, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn hơn tất cả Thanh văn, Độc giác về tác dụng của trí tuệ, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn chứng tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn dùng nhất niệm với tâm tùy hỷ, vượt hơn sự bố thí của cải của Thanh văn, Độc giác, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn dùng nhất niệm với tâm tùy hỷ, vượt hơn tịnh giới đang giữ của tất cả Thanh văn, Độc giác, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn dùng nhất niệm với tâm tùy hỷ, vượt hơn định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của tất cả Thanh văn, Độc giác, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn dùng nhất niệm với tâm tùy hỷ, vượt hơn tịnh lự, giải thoát, các cảnh định v.v… và các pháp lành khác của tất cả Thanh văn, Độc giác, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn dùng nhất niệm của pháp lành đang tu, để vượt hơn pháp lành của tất cả bậc Thanh văn, Độc giác, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn thực hành một phần nhỏ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, trí tuệ cho các hữu tình, phương tiện khéo léo, hồi hướng về quả vị Giác ngộ cao tột, để được công đức vô lượng vô biên, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát muốn khiến cho việc thực hành sáu phép Ba-la-mật: Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, trí tuệ, lìa các chướng ngại, mau được thành tựu, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn đời đời thường gặp chư Phật, luôn được nghe Chánh pháp, được giác ngộ như Phật, nhờ Phật mà nhớ lại lời dạy bảo, trao truyền, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn được đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, và tám mươi vẻ đẹp kèm theo viên mãn, trang nghiêm của thân Phật, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn được đời đời thường nhớ lại đời trước, hoàn toàn không quên mất tâm đại Bồ-đề, xa lìa bạn ác, gần gũi bạn lành, thường tu hạnh đại Bồ-tát, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn đời đời đầy đủ đại oai đức, xua đuổi các ma oán, điều phục các ngoại đạo, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn đời đời vĩnh viễn xa lìa tất cả phiền não nghiệp chướng, thông đạt các pháp, tâm không chướng ngại, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn đời đời tâm lành, nguyện lành, làm lành được liên tục, không biếng lười bỏ phế, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn sinh vào nhà tin Phật, vào bậc đồng chơn, thường không xa lìa chư Phật và Bồ-tát, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.



Nếu đại Bồ-tát muốn đời đời được đầy đủ các tướng tốt đoan nghiêm như Phật, tất cả hũu tình thấy được hoan hỷ, phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, nhanh chóng thành tựu công đức chư Phật, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn dùng các sức mạnh của căn lành thù thắng, tùy ý thường đem vật cúng dường quí nhất, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen tất cả Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, khiến cho các căn lành mau được viên mãn, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn thỏa mãn tất cả nhu cầu của hữu tình như ăn uống, y phục, giường chõng, đồ nằm, thuốc men chữa bệnh, các món hoa hương, đèn sáng, xe cộ, vườn rừng, nhà cửa, của cải, lúa gạo, ngọc quý, đồ trang sức quý, kỹ nhạc và các loại nhạc cụ quý khác, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát muốn khéo an lập tất cả hữu tình trong khắp cõi hư không, cõi pháp, cõi đời, khiến họ đều an trú các pháp Ba-la-mật-đa: Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, trí tuệ, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn được chỉ phát nhất niệm thiện tâm, mà có được công đức lớn, cho đến lúc ngồi trên tòa Bồ-đề cao quí, chứng được quả vị Giác ngộ cao tột, cũng không hết được, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn được tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ-tát, trong các cõi Phật ở mười phương, cùng khen ngợi, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn một lần phát tâm, liền có thể biến khắp vô số thế giới trong mười phương, để cúng dường chư Phật, lợi lạc hữu tình, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn, một lần phát ra tiếng, liền có thể biến khắp vô số thế giới trong mười phương, để tán thán chư Phật, giáo hóa hữu tình, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn, trong khoảng một niệm, an lập tất cả hữu tình, ở vô số cõi Phật trong mười phương, đều khiến họ học tập con đường mười việc làm lành, thọ ba quy y, giữ gìn giới cấm, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn, trong khoảng một niệm, an lập tất cả hữu tình, ở vô số thế giới chư Phật trong mười phương, đều khiến họ học tập bốn phép thiền, bốn tâm rộng lớn, bốn định vô sắc, đạt được năm phép thần thông, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn, trong khoảng một niệm, an lập tất cả hữu tình, ở vô số thế giới chư Phật trong mười phương, khiến họ an trụ Đại thừa, tu hạnh Bồ-tát, không hủy báng các thừa khác, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn nối giống Phật, không để đoạn tuyệt, giữ gìn dòng dõi Bồ-tát, khiến không thối chuyển, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau hoàn thành, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát muốn thông đạt cái không trong, cái không ngoài, cái không trong ngoài, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không giới hạn, cái không rộng lớn, cái không không đổi khác, cái không bản tính, cái không tự tánh, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không không thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn thông đạt tất cả pháp, pháp giới chơn như, tánh pháp, tánh không hư vọng, tánh không đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cõi hư không, cõi không thể nghĩ bàn, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn thông đạt tánh tận sở hữu, tánh như sở hữu của tất cả các pháp, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn thông đạt tánh nhân duyên, tánh đẳng vô gián duyên, tánh sở duyên duyên, tánh tăng thượng duyên của tất cả các pháp, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn thông đạt tất cả các pháp là như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như ảnh, như bóng sáng, như quáng nắng, như hoa đốm trên không, như ảo thành, như trò ảo thuật, chỉ do tâm hiện, tánh tướng đều không, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn biết hư không đại địa, các núi, biển lớn, các sông, ao, hồ, khe, suối, vũng nước, đất, nước, gió, lửa, và các thứ nhỏ nhiệm nhất, trong thế giới ba lần ngàn, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn chẻ một sợi lông làm trăm phần, rồi lấy một phần của sợi lông ấy, đưa hết nước trong biển lớn, các sông, ao, hồ, khe suối, vũng nước, ở thế giới ba lần ngàn, trút vào vô biên thế giới ở phương khác, mà không làm tổn hại đến các loài sống dưới nước, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát thấy có hỏa hoạn đốt cháy khắp trời đất, trong thế giới ba lần ngàn, muốn một hơi thổi, khiến cho tắt ngay, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát thấy có phong luân, ở trong thế giới ba lần ngàn, phát bùng lên, sắp thổi núi Tô-mê-lô, núi Tô-mê-lô lớn, núi Luân-vi, núi Luân-vi lớn, và các núi nhỏ khác, vạn vật trong đại địa, ở thế giới ba lần ngàn, nát ra như cám, muốn dùng một ngón tay ngăn sức gió ấy, khiến ngưng ngay, không khởi, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn một lần ngồi kiết già, đầy cả hư không, trong thế giới ba lần ngàn, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn dùng một sợi lông buộc núi Tô-mê-lô, núi Tô-mê-lô lớn, núi Luân-vi, núi Luân-vi lớn và các núi nhỏ khác, vạn vật trong đại địa, trong thế giới ba lần ngàn, ném qua vô lượng, vô số, vô biên thế giới phương khác, mà không tổn hại các loài hữu tình, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn dùng một món ăn, một đóa hoa, một nén hương, một cái tràng, một cái lọng, một cái phan, một cái trướng, một ngọn đèn, một chiếc áo, một bản nhạc hay v.v…, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, tất cả các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đệ tử trong vô số thế giới ở mười phương một cách đầy đủ, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn cùng an lập các loài hữu tình, trong vô số thế giới ở mười phương, khiến họ trụ vào nhóm giới, hoặc nhóm định, hoặc nhóm huệ, hoặc nhóm giải thoát, hoặc nhóm giải thoát tri kiến, hoặc trụ vào quả Dự-lưu, hoặc trụ vào quả Nhất-lai, hoặc trụ vào quả Bất-hoàn, hoăc trụ vào quả A-la-hán, hoặc trụ quả vị Độc-giác, cho đến, hoặc khiến nhập cảnh giới Vô dư y Niết-bàn, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, có khả năng biết như thật: Bố thí như vậy thì được quả báo lớn, gọi là biết như thật; bố thí như vậy thì được sanh vào dòng dõi lớn Sát-đế-lợi; bố thí như vậy thì được sanh vào dòng dõi lớn Bà-la-môn; bố thí như vậy thì được sanh vào dòng dõi lớn Trưởng giả; bố thí như vậy thì được sanh vào dòng dõi lớn Cư sĩ; bố thí như vậy thì được sanh vào các cảnh trời ở cõi Tứ-đại-thiên-vương, hoặc sanh vào cõi trời Ba-mươi-ba, hoặc sanh vào cõi trời Dạ-ma, hoặc sanh vào cõi trời Đổ-sử-đa, hoặc sanh vào cõi trời Lạc biến hóa, hoặc sanh vào cõi trời Tha-hóa-tự-tại. Do bố thí ấy, mà được Sơ-thiền, hoặc Đệ-nhị-thiền, hoặc Đệ-tam-thiền, hoặc Đệ-tứ-thiền. Do bố thí ấy, mà được định Không-vô-biên-xứ, hoặc định Thức-vô-biên-xứ, hoặc định Vô-sở-hữu-xứ, hoặc định Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ. Do bố thí ấy, mà được ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề. Do bố thí ấy, mà được ba môn giải thoát. Do bố thí ấy, mà được tám giải thoát, hoặc tám thắng xứ, hoặc chín định liên tục, mười biến xứ. Do bố thí ấy, mà được pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Do bố thí ấy, mà được lìa phiền não, nhập Niết-bàn của Bồ-tát. Do bố thí ấy, mà được bậc Cực hỷ, hoặc bậc Ly cấu, hoặc bậc Phát quang, hoặc bậc Diệm tuệ, hoặc bậc Cực nan thắng, hoặc bậc Hiện tiền, hoặc bậc Viễn hành, hoặc bậc Bất động, hoặc bậc Thiện tuệ, hoặc bậc Pháp vân. Do bố thí ấy, mà được năm thứ mắt Phật, hoặc sáu phép thần thông. Do bố thí ấy, mà được mười lực Phật, hoặc bốn điều không sợ, hoặc bốn hiểu biết không chướng ngại, hoặc mười tám pháp chỉ Phật riêng có, hoặc đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Do bố thí ấy, mà được ba mươi hai tướng của bậc đại trượng phu, hoặc tám mươi vẻ đẹp kèm theo. Do bố thí ấy, mà được pháp không quên mất, hoặc thường trụ trong tánh xả. Do bố thí ấy, mà được trí biết tất cả, trí biết tướng đạo, hoặc trí biết tất cả tướng. Do bố thí ấy, mà được quả Dự-lưu, hoặc quả Nhất-lai, hoặc quả Bất-hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả Độc giác Bồ-đề, hoặc được quả vị Giác ngộ cao tột; và có khả năng biết như thật: tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, trí tuệ, được quả báo lớn, cũng như vậy.