Tiểu tư nhận lấy chìa khóa từ người đánh xe, mở cửa l*иg sắt ra.
Trương Tú Nương bước vào trong, tiến lại gần, định đưa tay kiểm tra "hàng hóa".
Nhưng ngay lúc ấy, nam tử trong l*иg từ từ ngước mắt lên, đôi mắt u tối vô hồn, lạnh lẽo đến rợn người.
Trương Tú Nương bất giác cứng đờ tay chân, chân lùi lại vài bước vì kinh hãi.
Trong thoáng chốc, bà cảm thấy như thể mình vừa đi ngang qua Quỷ Môn Quan, bị nhiễm phải chút hơi lạnh tử khí.
Nhưng nhanh chóng, cái cảm giác đáng sợ đó tan biến, người trước mặt vẫn là một nam tử ngoan ngoãn và yếu đuối, chẳng khác gì ban nãy.
“Mama?” Tiểu tư khó hiểu gọi bà.
Trương Tú Nương bực bội, cầm lấy sợi xích treo trên l*иg, giật mạnh một cái. Móc sắt trên lưng của Mộ Trì lại cắm sâu vào vai hắn thêm vài phần, lập tức máu tuôn ra.
Cơ thể Mộ Trì khẽ lắc lư, nhưng thần sắc không hề thay đổi.
Trương Tú Nương liếc nhìn hắn một cái, nghĩ đến việc bỏ tiền ra mua về kẻ bị thương nặng, cuối cùng thả tay, hỏi tiếp: “Ngươi có tài nghệ gì không?”
Mộ Trì chậm rãi ngẩng lên, nhìn bà ta, đầu hơi nghiêng, vẻ mặt ngơ ngác.
Trương Tú Nương vốn tính nóng nảy, tự cho mình là người đã gặp qua vô số mỹ nhân, nhưng lại không ngờ trước gương mặt này, bản thân lại kiên nhẫn đến lạ lùng, liền giải thích thêm: “Ngươi có biết cầm kỳ thi họa không?”
“Những người đến nơi này đa phần là văn nhân mặc khách, hoặc quan lại quyền quý giả vờ thanh cao. Nếu cờ cao hay viết chữ, vẽ tranh giỏi thì có thể lọt vào mắt xanh của họ, bằng không chỉ có thể mở chân hầu hạ mà thôi.”
Mộ Trì yên lặng nhìn bà ta, cuối cùng cất giọng khàn khàn: “Cầm kỳ thi họa?” Giọng nói trầm thấp, mang theo chút khàn đặc và mơ màng.
Trương Tú Nương liếc nhìn hắn, cười nhạt: “Đừng mơ tưởng đến cầm kỹ. Tam công chúa đương triều vốn yêu cầm như mạng, cầm nghệ xuất chúng, từng đàn một khúc ‘Vân Thường Ngâm’ trên lễ đài khiến vô số người mê đắm. Trước một viên ngọc sáng như vậy, người khác có giỏi mấy cũng chẳng dám khoe khoang nữa.”
Trong Tùng Trúc Quán có không ít nam tử biết đàn, nhưng chẳng ai dám lấy tiếng đàn làm mánh khóe thu hút khách nhân, sợ bị người đời chê cười.
Tam công chúa của triều Lê...
Mộ Trì hạ mi mắt, rất lâu sau mới khẽ mở miệng: “Vậy thì cầm đi.”
Tại phủ công chúa.
Mùa đông năm nay ở Lăng Kinh đến sớm hơn mọi năm, vừa mới cuối tháng Mười, mà đã lạnh cắt da.
Trong phòng, lò sưởi đã được nhóm lên từ sớm, vậy mà không khí vẫn phảng phất chút lạnh lẽo.
Nha hoàn Y Thúy cầm chiếc búa bạc nhỏ nhắn tinh xảo, khéo léo đập vỡ vỏ quả óc chó, lấy ra những hạt nhân tròn trịa, đặt vào chiếc bát sứ xanh ngọc bích. Bên cạnh, một nữ tỳ khác đang nhẹ nhàng đọc truyện sách.
Kiều Uyển ngồi trước bàn, trong lòng không khỏi nhàm chán. Một tay nàng chống cằm, tay còn lại thỉnh thoảng chọc vào đầu chú vẹt đang dựa vào lòng bàn tay ấm áp của nàng. Tai nàng nghe mà chẳng để tâm vào câu chuyện ngọt ngào, đầy tình tứ giữa chàng thư sinh và tiểu thư thiên kim trong sách.
Vốn dĩ nàng là người dễ nóng, hai gò má vì thế mà đỏ hây hây, ngay cả con vẹt vốn sợ lạnh cũng ngoan ngoãn rúc vào lòng bàn tay nàng để tìm chút hơi ấm.
Dẫu vậy, Kiều Uyển lại thấy tâm tư mình lạc đi đâu đó, hình ảnh người thiếu niên bị nhốt trong l*иg sắt hôm nọ bất giác hiện về trong đầu nàng.
Cảnh tượng ấy, trong không gian nhơ nhuốc, chiếc l*иg sắt loang lổ vết gỉ, trên nền vải trắng tinh là những vết roi đỏ thẫm, cùng với vệt máu vương vãi lấm lem. Nhưng điều khiến nàng khó quên nhất, chính là nụ cười hờ hững mà vô cùng điềm tĩnh của chàng.
Đó là một vẻ đẹp tàn bạo, đau đớn nhưng lại mang một sức cuốn hút đến nghẹt thở.
Kiều Uyển phải thừa nhận, đó là người đẹp nhất mà nàng từng thấy.
Tiếc là, lúc nàng còn mãi ngắm nhìn, thì xe ngựa đã khuất bóng ở cuối đường.