Cao nguyên, cát vàng, sỏi đá.
Tiểu trấn Hoàng Thạch ở giữa miếng đất đầy sỏi đá, một mảnh đất trên cao nguyên. Cát vàng mịt mù trên cao nguyên, nhìn xa xa thành những cuộn cuộn cát vàng.
Tiểu trấn này có một truyền thuyết còn lưu lại tới bây giờ.
Quanh quẩn vùng này, mỗi nơi đều có tàng trữ một bảo tàng rất khổng lồ, trong đó thứ gì cũng không có, chỉ có vàng, vàng nhiều đến mức muốn đếm cũng đếm không xuể.
Bực mình cái là không ai tìm ra được, cũng chẳng có ai thấy vàng đó, chỉ thấy cát vàng vĩnh viễn cứ bay mịt mù trong gió.
Vàng là thứ ai ai cũng mộng tưởng, cát vàng vô bờ bến kia lại là cơn ác mộng. Cái mộng tìm vàng đã bị vỡ, người tìm vàng đã bỏ đi. Qua qua lại lại tiểu trấn chỉ còn lại một số nhà không biết đi đâu, đành phải chôn xác tại đây. Họ thấy có một người khách từ nơi xa lại thông thường rất lấy làm cao hứng vô cùng.
Lúc Lục Tiểu Phụng đến đây, thái độ của họ quả thật là như vậy.
Lục Tiểu Phụng đi sâu vào tiểu trấn, chẳng còn thấy vẻ nhiệt tình và cao hứng ở đâu. Cái chàng thấy đầu tiên, chẳng qua là một con đường bần cùng và một kẻ cùng cực gần muốn chết.
Thật ra, người này cũng không coi như là một người, chẳng qua là một đứa bé lớn không ra lớn nhỏ không ra nhỏ, mặc một bộ đồ không còn gọi là quần áo, ngồi dưới mái nhà ở góc đường trong một tư thế lười lẫm không chịu được.
Thật ra, hắn cũng không thể nói là ngồi đó, hắn đang núp trong đó, giống như một con trùn đang rúc người trong đó, lại giống một con rùa đang thụt đầu vào trong cổ.
Hắn không có tiền, không có thân nhân, không có bạn bè, cũng chẳng có tương lai.
Hắn chẳng có gì hết ráo.
Hắn sợ.
Cái gì hắn cũng sợ, do đó hắn chỉ còn chui rúc vào, cuốn thành một khoanh, rút vào trong cái vỏ của mình, trốn chạy cái bần cùng, đói rách, ty tiện đáng sợ đó.
Bởi vì hắn vẫn còn là một đứa bé, hắn không biết những chuyện mình sợ đó, dù có rút người vào trong cái vỏ, cũng trốn không thoát nổi.
Có điều lúc hắn thấy Lục Tiểu Phụng, ánh mắt của hắn sáng lên, cặp mắt sáng rực lên của hắn lại là cặp mắt to lớn trông rất khả ái.
Cặp mắt ấy vừa thấy Lục Tiểu Phụng, giống y như một con chó đang đói nhìn thấy bãi phân, một con vương bát nhìn thấy hột đậu xanh. May mà Lục Tiểu Phụng chẳng phải là hột đậu xanh, mà cũng chẳng phải bãi phân. Lục Tiểu Phụng đi lại trước mặt hắn, chẳng qua chỉ muốn hỏi hắn một chuyện thế thôi.
Một người vừa đến một nơi xa lạ, chẳng những vậy còn tính ở đó một thời gian, do đó điều y muốn hỏi trước tiên chính là tửu điếm nằm đâu, để còn giải quyết chuyện cơ bản nhất của y là ăn uống.
Đứa bé cười nhăn cả cái mũi nói:
– Tửu điếm? Ông hỏi tửu điếm ở đâu? Nơi đây cùng đến độ thỏ còn không ỉa, cùng đến độ ruồi và chuột còn muốn chết đói, làm sao còn có tửu điếm đâu ra?
Lục Tiểu Phụng hỏi:
– Ngay một cái cũng không có?
Đứa bé nói:
– Ngay nửa cái nhà còn không có.
Lục Tiểu Phụng hỏi:
– Nếy vậy thì khách qua đường, ban đêm muốn tá túc thì phải làm sao?
Đứa bé nói:
– Chẳng làm sao cả, bởi vì chẳng có ai từng qua đây, dù phải đi thêm mấy chục dặm nữa, cũng chẳng có ai muốn đi qua đây.
Lục Tiểu Phụng nhìn lom lom cả nửa ngày vào tên ăn mày vừa dơ vừa đáng ghét vừa lười vừa hay nói đó, nhịn không nổi hỏi:
– Nơi đây cùng cực đến như vậy sao?
Tên ăn mày thở ra:
– Không những cùng, mà còn cùng đến chết luôn, không những tôi cùng cực muốn chết đây, người khác dù chưa bần cùng đến chết như tôi, ít nhất cũng cùng cực nửa sống nửa chết.
Lục Tiểu Phụng nói:
– Nhưng xem ra ngươi còn chưa chết.
Tên ăn mày nói:
– Đấy chẳng qua tôi còn chút tài mọn có thể dằng dai thêm tý nữa.
Lục Tiểu Phụng hỏi:
– Tài gì?
Tên ăn mày đáp:
– Tôi là tên ăn mày, ăn rất ít. Hạng người như tôi, dù có bần cùng đến đâu cũng còn sống lê lết được qua ngày.
Lục Tiểu Phụng bật cười:
– Ta nhớ ngươi mới nói hình như là nơi đây cùng cực đến độ muốn chết tới nơi, vậy thì lấy đâu ra đồ còn thừa tiếp tế cho ngươi?
Tên ăn mày cũng bật cười:
– Đại thiếu gia, xem ra ông quả thật là đại thiếu gia. Chuyện ăn mày, đương nhiên ông không hiểu.
Lục Tiểu Phụng hỏi:
– Là sao?
Tên ăn mày nói:
– Cỡ hạng ăn mày như tôi, tại một nơi bần cùng đến nỗi muốn đem tôi ra nấu canh, mà tôi còn có thể sống qua ngày thì đương nhiên tôi còn nghề riêng.
Lục Tiểu Phụng hỏi:
– Nghề riêng? Nghề riêng gì?
Tên ăn mày bỗng nhiên ưỡn ngực ngồi thẳng dậy:
– Muốn giảng cho rõ về chuyện này, phải có một trình độ học vấn rất cao. Về phương diện này, tôi có thể nói là một chuyên gia.
Lục Tiểu Phụng đối với tên ăn mày này càng lúc càng cảm thấy hứng thú.
Tên ăn mày nói:
– Nói thật cho ông biết, nghề riêng của tôi không chỉ có một thứ. Tiếc là trong bảy tám thứ nghề riêng của tôi, chỉ có hai thứ là kiếm được tiền.
Lục Tiểu Phụng hỏi:
– Hai thứ gì?
Tên ăn mày đáp:
– Thứ nhất kiếm tiền được tối đa là đυ.ng phải hạng người ngơ ngơ từ phương xa lại như ông.
Hắn chỉ vào Lục Tiểu Phụng:
– Tiền của những hạng người ngơ ngơ như ông, không kiếm ra cũng vậy thôi, kiếm ra cũng như là không kiếm.
Lục Tiểu Phụng cười khổ:
– Ngươi nói sao mà đúng thế, hiện giờ ta đã bắt đầu muốn khâm phục nhà ngươi rồi.
Chàng lại hỏi tên ăn mày:
– Còn nếu không có hạng người như ta đây thì sao?
Tên ăn mày đáp:
– Vậy thì đành phải dùng nghề riêng thứ hai chứ sao. Nghề riêng thứ hai của tôi là ăn cắp, có cơ hội là trộm ngay. Gặp tiền là trộm, lục thân bất nhận, có thể trộm được bao nhiêu cứ việc trộm, trộm sạch mới ngừng.
Đây là cái nguyên tắc sinh tồn của tên ăn mày.
Nhưng Lục Tiểu Phụng không hề có ý khinh thị hắn tý nào, cũng chẳng có ý định thò tay ra tát cho hắn bạt tai, ngược lại, chàng cảm thấy có cái gì bi ai sâu thẳm trong lòng.
Trên đời này không phải có rất nhiều người có mặt có mày mà nguyên tắc sinh tồn cũng không khác gì tên ăn mày không xấu hổ này sao.
*****
Cái tiểu trấn này quả thật quá bần cùng, Lục Tiểu Phụng đã đi hết ven trời góc bể, mà chưa thấy nơi nào bần cùng hoang liêu như nơi này.
Thật tình chàng không hiểu được, hạng người như Liễu Như Cương, tại sao lại đến nơi này làm gì?
Chàng càng không hiểu, một nơi như nơi này, lại phát sinh ra chuyện đáng cho Liễu Như Cương không ngại đường xa vạn lý, chẳng những vậy, còn là chuyện Liễu Như Cương cho là có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Một cái tiểu trấn vô danh, một vị kiếm khách danh tiếng lẫy lừng thiên hạ, vốn không thể đem ráp lại vào với nhau.
Kỳ quái là Liễu Như Cương thật sự làm như có điểm quan hệ thần bí quái lạ đó.
Càng kỳ quái nữa là Liễu Như Cương thật sự biến mất ở cái khung trời này. Do đó, Lục Tiểu Phụng muốn điều tra cho ra sự quan hệ giữa cái tiểu trấn này và người bạn thân của chàng.
Chỉ tiếc là, đến bây giờ, chàng chỉ thấy có một tên ăn mày vừa thê thảm, vừa khả lân, nhưng lại có tý khả ái trong đó.
Lục Tiểu Phụng đã đi qua rất nhiều nơi, đi qua hết chân trời góc biển, đi qua các thứ các dạng hương thôn trấn khư lớn có nhỏ có.
Bất kỳ nơi nào, ít nhất cũng có một gian hàng tạp hóa, dù không có tửu điếm, không có kỹ viện, không có hàng vải, không có quán cơm, không có xe có ngựa chạy, không có tiệm lương thực, nhưng nhất định phải có một gian hàng tạp hóa.
Bởi vì tiệm tạp hóa vốn là để cung ứng nhu cầu tất yếu nhất của con người.
Cả một đời Lục Tiểu Phụng, không biết đã gặp qua bao nhiêu tiệm tạp hóa kỳ kỳ quái quái, có tiệm thậm chí còn cung ứng một thứ yêu cầu đặc biệt nhất của người ta.
Nhưng Lục Tiểu Phụng còn chưa thấy qua cái tiệm tạp hóa nào ly kỳ quái đản như cái tiệm tạp hóa này.
Tiệm tạp hóa này dĩ nhiên là ở tại cái tiểu trấn này, tiệm tạp hóa này còn có cái bảng hiệu là Đại Nhãn, đương nhiên tên ăn mày như con rùa con đó đã đưa chàng lại.
Một cái bảng bị gió cát dầu khói bào thành một miếng gỗ như bia mộ, trên đó có khắc một con mắt thật lớn, đấy chính là bảng hiệu của cửa tiệm.
Lục Tiểu Phụng lắc đầu:
– Đại Nhãn, tiệm tạp hóa Đại Nhãn, cái bảng hiệu thật quái lạ.
Tên ăn mày nói:
– Không quái lạ tý nào, chủ tiệm tên là Vương Đại Nhãn, cửa tiệm tự nhiên thuận lý thành chương có cái tên như vậy thôi.
Lúc Lục Tiểu Phụng nghe nói vậy, chàng còn chưa hiểu ra câu nói ấy nghĩa lý ra làm sao.
Thật ra, chưa gặp qua Vương Đại Nhãn lần nào, chẳng ai có thể hiểu được ý tứ của câu nói ấy.
Bởi vì cỡ hạng người như Vương Đại Nhãn, rất ít người có thể thấy y.