Mùa hè Thiên Khải như thiêu như đốt, thủy tạ Lăng Ba Thính trong Sưởng vương phủ phía tây thành có tiếng là động phủ thủy tinh, gió đưa sen thoảng, mười dặm hồ gương, trên Lăng Ba Thính trăng nước mơ màng, ca nữ ngâm nga điệu thanh xướng.
Chấp sự tới bẩm đã mời được người bán chim cắt đến. Sưởng vương cho ca nữ lui, thị nữ buông mành trúc bốn bề thủy tạ xuống rồi nối đuôi nhau lùi ra.
Chấp sự dẫn ba tay buôn ưng tới, buổi tối nóng chưng người như vậy mà cũng trùm khăn đen, che kín đầu mặt thân cổ, quấn quanh hông hai vòng, cuối cùng thả rũ trên đầu gối. Hai tay buôn ưng trái phải quỳ rạp xuống thi lễ với Sưởng vương, chỉ duy người ở giữa đứng thẳng, Sưởng vương cũng chẳng ngạc nhiên, lười nhác hỏi: “Ưng đâu?” Tay buôn ưng dẫn đầu thoáng liếc chung quanh, không nói câu nào.
Sưởng vương cười bảo: “Cho ta xem hàng.”
Hai tay buôn ưng quỳ rạp dưới đất chợt vén khăn trùm lên, Sưởng vương khẽ híp mắt: “… Ồ, lông vũ sáng bóng thật.”
Trong lòng tay buôn ưng không hề thấy có con chim ưng chim cắt nào, cái choáng ngợp mắt người là con ngươi lam lạnh hầu như không màu và mái tóc vàng kim rực rỡ của họ.
“Là chim cắt xanh thượng đẳng nhất à?”
“Không con nào khá hơn được nữa.” Tay buôn ưng dẫn đầu nói tiếng quan thoại, hơi mang khẩu âm kinh kỳ.
“Không đáng với cái giá đó thì đừng hòng ta trả một cắc nào.” Thần sắc Sưởng vương vẫn bông lơn như trước.
Mành trúc bốn bề bỗng không gió mà rung phát ra tiếng lanh canh, từ trên đỉnh thủy tạ hạ thẳng xuống một bóng đen, trong bóng đen lấp lóe ánh xanh, sát ý mãnh liệt như một tia sét đánh thẳng xuống đỉnh đầu tay buôn ưng dẫn đầu. Chuyện xảy ra quá đột ngột, hai người đàn ông tóc vàng trái phải không mảy may cất lời, ánh mắt cũng chẳng giao nhau mà đã có một người tung mình bật lên, còn chưa kịp nhìn rõ động tác ra sao đã nghe keng một tiếng, ánh xanh kia bị đánh bay ra ngoài, găm phập vào viên gạch vuông đọng bùn bên cạnh người còn lại, kêu ong ong không dứt, thì ra là một thanh trường kiếm hở trần màu cỏ gai. Thinh không xào xạc, gió mạnh chợt nổi, ép người ta không ngẩng đầu ngước mắt lên được, mành trúc treo cột quanh thủy tạ bị gió thổi phồng lên, mấy chục đai tơ nhất tề đứt phựt, mành trúc nặng nề chợt bay tung, tiếng nghe rào rào như mưa to xối xả.
“Chà, triệu phong sư.” Sưởng vương thấp giọng lẩm bẩm, trong mắt nứt ra tia sáng khoái chá mà trầm kín.
Đó là pháp sư tu tập thuật túng phong trong truyền thuyết, bất kể ở Đông Lục hay Bắc Cương, dấu tích đều tựa tiên nhân, trăm năm khó gặp. Sau một loạt các dị tượng nơi này, đã hoàn toàn không phát hiện ra bóng đen vừa đâm bổ xuống mới rồi có khí tức gì nữa. Trong lòng Sưởng vương biết đó không phải do mình tập võ không tinh mà là bởi trận gió người đàn ông tóc vàng kia gọi tới quá dồi dào to lớn. Cú đâm bổ trên không mới rồi dẫu sắc bén như sấm sét, trong gió lớn dữ dội như vậy cũng chỉ như đốm sáng bắn tóe từ đá đánh lửa. Thời gian chẳng quá vài cái chớp mắt, hai bóng người đã đáp xuống, cách nhau sáu bảy thước, bóng đen bị một luồng gió lốc nho nhỏ bao vây chính giữa, sức gió hung hiểm như xen lẫn lưỡi dao sắc lẹm vô hình, khiến y không sao cử động được. Mà người đàn ông tóc vàng còn lại quỳ rạp trên đất hành lễ thì trầm tĩnh như núi từ đầu đến cuối, lưỡi kiếm ban nãy đang cắm ngay bên cạnh hắn, song đến thân hình hắn cũng chưa từng dao động, đôi mắt lam băng lộ vẻ dửng dưng, nhìn kĩ mới phát hiện ra một vệt trắng nông nhạt trên mặt người này, là dấu vết lưỡi kiếm cọ qua.
Hơi thở tay buôn ưng dẫn đầu vững vàng, cười trầm trầm nói: “Hay cho một cú được ăn cả ngã về không, chuyên tâm dồn chí, ý tụ một đường, trong phủ đã có nhân tài như vậy, nghiệp lớn dễ thành, việc gì phải đi xa ngàn dặm tìm mua chim cắt xanh?”
“Ông ta từng thử rồi.” Trên mặt Sưởng vương vẫn cười mỉm như thường, “Mười năm trước lúc tráng niên, liên kết với một người công lực sàn sàn như ông ta, nhưng thất bại.”
“Ồ? Thế lại thành ra là ta khinh thường cấm vệ nhà Trưng rồi.” Tay buôn ưng dẫn đầu dời mắt, nhìn sang hai người dưới sảnh, chợt bật cười: “Hóa ra là ông.”
Người bị nam tử tóc vàng cầm chân trong l*иg gió nghe thấy câu ấy, ngẩng gương mặt đen nhẻm lên, vẫn hoàn toàn nhìn không ra biểu cảm gì.
“Thả ra đi, đó là tướng quân Đông Lục, không thể lỗ mãng.”
Người đàn ông tóc vàng nghe vậy lập tức thu hai tay về trước ngực, chỉ thấy cơn lốc dần yếu đi, Phù Nghĩa rút hai cánh tay ra, mắt sáng quắc nhìn chằm chằm tay buôn ưng dẫn đầu.
Sưởng vương mỉm cười nói: “Không tệ, màu lông đẹp, móng mỏ sắc nhọn, chỉ mong có thể một trận thành công.”
“Nếu đại sự hoàn thành, mong điện hạ ban cho ta thù lao đúng thương lượng ban đầu.”
“Nếu chuyện này thành, nước ta sẽ không can dự vào cuộc chiến thôn tính giữa quý quốc và Già Mãn, một lời đã định. Có điều, các hạ không chịu cho người ta hay diện mạo thật, tương lai muốn trả thù lao, chẳng biết phải đưa cho ai đây.”
Dưới khăn trùm truyền ra tiếng cười khẽ, tay buôn ưng vươn tay kéo giật, khăn trùm lập tức rơi xuống hông, để lộ dung mạo cao sâu anh tuấn.
Sưởng vương khẽ a một tiếng.
“Anh là… Tả Bồ Đôn vương!” Trong mắt Phù Nghĩa bắn tóe tia lửa.
“Gặp mặt vội vàng mới có một lần trên triền núi Bì La, trí nhớ tướng quân tốt thật.” Thanh niên tóc vàng cao lớn hai mắt xanh sáng, trong trẻo có thần.
“Người này chính là tên cận vệ lúc ấy đã tay không chặn một mũi tên cho anh trên đường núi?” Phù Nghĩa lạnh lùng liếc người đàn ông trầm tĩnh vẫn quỳ một chân trên đất.
Tả Bồ Đôn vương nhếch miệng, chẳng đáp đúng sai.
“Trong cấm quân nước ta có một tên vạn kị, tướng mạo cực kì giống Tả Bồ Đôn vương, thế nên ban nãy ta mới giật mình thế.” Sưởng vương nói.
Tả Bồ Đôn vương nhướng hàng mày vàng kim. “Dung mạo cực kì giống? Tên ấy bao nhiêu tuổi?”
“Hăm tư hăm lăm gì đó.” Phù Nghĩa đáp.
“Nói vậy, ta quả thật có một đứa em trai tên Đoạt Hãn thất lạc trên chiến trường Hồng Dược Nguyên. Dung mạo vóc dáng Đoạt Hãn giống ta như đúc, gần như sinh đôi, chỉ khác mỗi thừa hưởng tóc đen mắt đen của mẹ kế ta Hồng Dược đế cơ. Lúc hỗn chiến, nó ngồi chung ngựa với ông chú Bà Đa Na vương, sau khi quân Đông Lục rút, chúng ta tìm bốn ngày bốn đêm trên chiến trường, chỉ tìm thấy thi thể của chú, đầu đã bị quân Đông Lục các người chặt mất, Đoạt Hãn thì chẳng biết đã đi đâu.”
“Tên Vũ Lâm vạn kị đó tên là Phương Trạc Anh.” Phù Nghĩa nói.
“Trạc Anh…” Tả Bồ Đôn vương trẻ tuổi rất sõi tiếng tộc Hoa mà giờ khắc này lại nhiễm nặng khẩu âʍ ɦộc Khố, dáng vẻ như đăm chiêu hoài niệm, trong con ngươi lam óng có mạch nước ngầm phức tạp đan giăng. Lát sau, hắn tủm tỉm nhìn về Sưởng vương, mở miệng: “Chắc chắn đó chính là Đoạt Hãn, năm ấy nó chỉ mới mười tuổi.”
Năm ấy Đoạt Hãn vừa tròn mười tuổi. Nam nhi Hộc Khố cả đời chỉ cạo tóc hai lần, một lần vào năm mười tuổi, một lần trước khi chết. Dân du mục trên thảo nguyên sống bám đồng cỏ và nguồn nước, phụ nữ thụ thai khó khăn, trẻ sơ sinh chết yểu rất nhiều, thế nên trẻ con được bảo bọc yêu thương hết mực. Trước mười tuổi, các bé trai đều được coi là trẻ sơ sinh, giữ tóc máu thắt bím, vào ngày sinh nhật lần thứ mười, người nhà mới cạo tóc máu của bé trai đi, dùng rượu máu xối đầu, kể từ đó là nam nhi có thể ra chiến trường. Lúc các bộ lạc Hộc Khố giao chiến mà sát thương trẻ con có tóc máu là mang tội diệt tuyệt nhân tính, ắt gặp quả báo diệt tộc.
“Khi đó, con là một thằng bé trọc lốc, đoán chừng vừa qua sinh nhật chưa được mấy ngày.” Phương Chư nhàn nhã phe phẩy một chiếc quạt tròn, gió đêm phất tung tà áo trắng, khoan thai trang nhã.
Trạc Anh đã chẳng còn nhớ sinh nhật năm mười tuổi đó rốt cuộc ra sao. Nhưng cậu nhớ khoảnh khắc gặp Phương Chư lần đầu.
Cậu khi đó hãy còn là trẻ con, chẳng biết làm sao mà bị vứt lại một mình trên Hồng Dược Nguyên vạn quân xông xáo, ngất đi. Lúc tỉnh lại, tiếng chém gϊếŧ đã lùi tới nơi xa tắp, mà rất nhiều người Đông Lục thì đã tách khỏi chiến trường, lục tục đi ngang qua cậu, chỉnh đốn lại đội hình, hoàn toàn không để đứa trẻ bé bỏng là cậu vào mắt. Cậu ngồi dậy, siết chặt con dao găm xinh xắn như đồ chơi bên hông, không biết có nên khóc hay không. Đúng lúc ấy, một thớt ngựa lông đỏ dừng lại bên cạnh cậu, thiếu niên Đông Lục trên yên cúi xuống nhìn cậu chăm chú.
Thiếu niên Đông Lục đã cởi giáp, áo bào gấm bên trong bị máu đào cát bụi nhuộm be bét, trong màu máu gồ lên hoa văn tinh xảo vốn sáng màu, mang một vẻ đẹp kinh dị. Xưa nay người Hộc Khố luôn xem thường xiêm áo lụa là của người Đông Lục, không cản được gió, không bền, xé cái là rách, ẻo lả yếu ớt như chính bọn họ vậy. Song, cũng có loại người Đông Lục thế này, thản nhiên tủm tỉm, trên mặt trên người dính máu bết khô vẫn chẳng màng ái ngại.
Con ngươi đen láy ánh kim của đứa trẻ rực sáng tột độ, nhìn chòng chọc vào thiếu niên như một con thú nhỏ, hiển hiện quyết tâm và ý chí của trẻ thơ.
“Ta hỏi con tên gì, con đáp một câu khó hiểu, ta mới nhớ ra con nghe không hiểu tiếng chúng ta.” Phương Chư đặt cây quạt tròn xuống, vươn tay châm thêm trà cho Trạc Anh.
Trạc Anh cười mờ mịt: “Con trả lời câu gì khó hiểu? Con gần như không nhớ nổi tiếng Hộc Khố ra sao nữa rồi.”
Phương Chư cũng cười: “Dài lắm, ta nghe mở đầu na ná hai chữ Trạc Anh, bèn lấy làm tên cho con.”
Trạc Anh không tiếp lời, bóng trăng trong chén trà vỡ tan ly hợp, cậu nhìn trân trân như si mê.
“Mười lăm năm, có muốn trở lại Hãn Châu không?”
Trong lòng Trạc Anh như bất chợt mở ra một khoảng trống. Hãn Châu… Cái nơi vốn tưởng rằng cả đời cũng không quay về nữa.
Nơi bình nguyên ấy, hai mùa đông hạ luân phiên vô tận, những ngày cát đá mù trời nối đuôi nhau xếp hàng chật kín từ đầu năm đến cuối năm, đồng cỏ chỉ rậm rì trong ba bốn tháng mùa hè ngắn ngủi, vội vàng đến độ mọi người chỉ có nước thả ngựa phi nước đại, chạy đằng trước lang sói, chạy đằng trước thời gian, chạy đằng trước bão tuyết sương muối, chạy bán sống bán chết đằng trước, chạy không dừng được. Cái trời ban cho dân thảo nguyên cũng chỉ có kiếp sống khắc nghiệt ấy, nhưng chính trong những ngày như thế, dân thảo nguyên vẫn có trái tim nô đùa ca hát của họ. Họ thản nhiên sinh sống, coi sinh mệnh là một ván đua ngựa đấu vật dám cược dám thua, ai chậm chạp – chết, ai trù trừ – chết, ai yếu đuối – chết, ai tài nghệ không bằng người khác – chết, tuyệt nhiên không một lời oán giận.
Vậy cố hương ta sao mà sảng khoái thỏa thuê quá, nhưng, chính vì là nam nhi Hộc Khố nên một lời hứa sánh ngang ngàn vàng, bất di bất dịch.
Trạc Anh cụp mắt nhìn chén trà thành mỏng trong tay, viền chén trong như gương dần im lìm rạn ra những đường vân băng, con ngươi như thạch anh đen loe loé ánh kim nhàn nhạt, “Hiếm hoi lắm mới thấy nghĩa phụ nói như vậy nhỉ. Con về rồi, ba năm ấy của ngài chẳng lẽ coi như bỏ? Vậy chẳng phải ngài sẽ là người uổng công vô ích thiên hạ hận nhất sao?”
Nụ cười bên khóe miệng Phương Chư sâu hơn, “Nghe nói, mấy ngàn năm trước trên thảo nguyên phương bắc có một người tên là Tự Cửu, để thuần phục thiên mã con rồng, đã tiêu tốn mười hai năm vật lộn với nó, cho đến khi người như đá, tóc như cỏ, rốt cuộc mới tìm được cơ hội cưỡi thiên mã con rồng. Thiên mã hí vang, đạp cầu vồng mây trắng ráng chiều sấm sét trong trời đất, phi nước đại mười hai năm, Tự Cửu cũng ngồi trơ trên lưng ngựa mười hai năm. Sau cùng, thiên mã con rồng cam tâm thuần phục, hóa thành một cô gái, đẻ với Tự Cửu bốn người con, bốn đứa trẻ ấy chính là tổ tiên bốn bộ Hộc Khố, cũng là cháu rồng.”
Trong nụ cười của Trạc Anh nhuốm nỗi chua xót: “Sao lại đi kể chuyện cổ tích vậy? Con còn thân với nghĩa phụ hơn mà.”
“Lần đầu tiên trông thấy con, ta đã biết con là một con ngựa bất kham, cưỡng ép thế nào cũng bất khuất, trừ phi khiến con bại trận tâm phục. Ba năm đã là hời rồi.” Phương Chư quay ra hồ Sương Bình, bờ bên kia, phòng Hải Thị đang sáng đèn.
“Cậu đã là một đấng nam nhi, như vậy, kể từ hôm nay ta sẽ không thiết lập canh phòng ngoài doanh trướng nữa, đao thương cung nỏ trong kho vũ khí tùy cậu chọn lựa. Trong vòng ba năm nếu gϊếŧ được ta thì cậu được phép trở về Hãn Châu, bất kì ai cũng không thể ngăn cản. Nhưng nếu không gϊếŧ được…” Võ tướng thiếu niên trên ngựa cúi người, vết đao bên khóe miệng như ngậm cười, “Cậu phải gọi ta là nghĩa phụ, nghe lời ta sai phái.”
Đứa trẻ nghe quân sĩ thông dịch, ánh kim trong con ngươi đen láy như thú nhỏ xoay vòng, phun ra một tràng tiếng Hộc Khố. Quân sĩ thông dịch nghe xong có phần lưỡng lự, Phương Giám Minh hờ hững nói: “Ngươi không đến nỗi sợ một đứa bé đấy chứ.”
Quân sĩ giận cuống lẫn lộn, trán rịn mồ hôi, “Thằng ranh đó nói, nó nói, không chỉ gϊếŧ, nó còn phải nướng Thanh Hải công lên, nướng ăn…”
Phương Giám Minh cười dài, cánh tay thoắt vươn ra đã xách được đứa bé lên lưng ngựa, tiếp đó giương roi đánh ngựa lao thẳng về phía đại đội. Khi ấy, lão Thanh Hải công đã tử trận được hai năm, Phương Giám Minh kế thừa tước vị của phụ thân vào năm hai mươi tuổi, đến trận hỗn chiến trên Hồng Dược Nguyên cũng chỉ mới hăm hai.
Ba năm sau, vào Thiên Hưởng năm thứ hai, bắt đầu có người để ý thấy thiếu niên khôi ngô bên cạnh Thanh Hải công trẻ tuổi gọi chàng là “nghĩa phụ”.
Hai người ôm trong lòng quá vãng của riêng mình, lá sen trên hồ Sương Bình dập dềnh, chỉ là không ai cất lời.
“… Cơ mà, nuôi nhốt một con ngựa tốt như vậy giữa đám chó lợn đúng là phí phạm của trời. Sớm muộn gì con cũng phải về Hãn Châu. Ta nuôi con mười lăm năm, dạy con võ nghệ mưu lược là để một ngày kia nhìn con nhanh như chớp giật.” Phương Chư khẽ than.
“Nghĩa phụ, thế cục bên người chưa rõ, con nguyện ở lại Thiên Khải.” Trạc Anh vội nói.
“Gần đây trong Sưởng vương phủ bắt đầu có động tĩnh, mắt thấy biến loạn sắp đến, ta cũng muốn giữ con lại kinh thành,” Sắc mặt Phương Chư thoáng xao động, khôi phục rồi lại rầu rầu than thở, “Có điều, có vài chuyện không có con không được. Hải Thị chạm trán anh trai con rồi cũng không tránh khỏi có phỏng đoán về thân thế của con, càng đừng nói ngày ấy trên con đường đó có bao nhiêu quân sĩ. Con đã chẳng thể ở lâu trong kinh nữa rồi, phải về Hãn Châu, lại khó tránh bị đồng tộc nghi kỵ. Trước mắt chỉ có một biện pháp.” Chàng đặt quạt tròn xuống, đứng dậy, “Mấy ngày nay, huynh muội hai đứa tranh thủ tâm sự cho nhiều vào, về sau muốn gặp mặt cũng chẳng dễ dàng.”
Trạc Anh nhìn bóng lưng Phương Chư phiêu diêu đi xa, biến mất tại khúc rẽ hành lang, ngồi trở lại, vươn bàn tay phải cầm chén trà ra ngoài lan can sát mép nước. Chén trà ấy đã sớm bị Trạc Anh bóp vỡ, chỉ là bị bàn tay siết cứng hồi lâu, dùng sức rất vừa độ nên giữa những mảnh vỡ mỏng giòn như nhiều mũi dao tiếp xúc ở cùng một điểm khép chặt vào nhau không để dò một giọt nước. Bàn tay thon dài thanh tú tĩnh mạch rõ ràng kia từ từ mở ra, chén trà cũng chia năm xẻ bảy, trà xanh sứ mỏng long lanh lấp lánh dưới ánh trăng, ào ào rơi xuống hồ Sương Bình.
Nghĩa phụ, thế cục bên người chưa rõ, con nguyện ở lại Thiên Khải. Câu này như thốt lên từ miệng của chính mình năm xưa. Phương Chư chậm rãi thả bước trong thủy tạ chín khúc, không khỏi chớp mắt như buốt nhức.
“Từ bé Đoạt Hãn đã là một con sói con, không gì có thể ước thúc được nó.” Thanh niên tóc vàng trầm ngâm, “Có điều, nghe vương gia nói vậy, ta thật muốn xem xem sói con nuôi trong ổ hồ ly mười lăm năm trông như thế nào.”
“Đến ngày đúng dịp, hai con cắt xanh thượng hạng này nhất định sẽ có một trận đánh với lệnh đệ.” Ánh nước trong veo rọi lên mặt Sưởng vương.
“Chỉ tiếc ta không thể tận mắt chứng kiến.” Tả Bồ Đôn vương nghiêng đầu cười, “Còn phải tranh thủ thời gian vòng sang Mạc Hột Quan mạn tây trở về, trên đường thăm dò tình hình Già Mãn nữa.”
Trong lòng Sưởng vương biết gã Tả Bồ Đôn vương Đoạt Lạc này có khúc mắc với Hữu Bồ Đôn vương Ngạch Nhĩ Tề xưa nay, sợ là nóng ruột muốn về Hộc Khố gấp, cũng không muốn để lại tung tích, bèn cười khẽ, nói: “Vậy, đêm mồng một tháng này cùng đợi tin lành thôi.”
Tả Bồ Đôn vương giấu lại mái tóc vàng và gương mặt vào khăn trùm, ngẩng đầu phóng mắt nhìn về cấm thành cách đó mười dặm. Cấm thành ngự cao trên đỉnh núi, ngẩng đầu ở bất kì đâu trong Thiên Khải cũng có thể thấy được, cung thất uốn lượn như một chuỗi minh châu.
Mười dặm lâu đài mù sương khói, vô số mái hiên ngói lưu li xanh vàng hứng ánh trăng nhấp nhô liên miên thành một khoảng biển xanh tĩnh mịch, trên đỉnh sóng ngẫu nhiên lấp lánh một hạt cát vàng, là con ngươi vàng điểm trong mắt thôn tích thú (*).
(*) Trên nóc cung điện, phủ đệ ở Trung Quốc cổ đại thường có tượng thần thú thành cặp trên sống nóc nhà, những bức tượng thú này được gọi là thôn tích thú.
Vừa mới qua canh ba. Trên nóc trùng diêm hiết sơn (*) cách mặt đất sáu trượng, Hải Thị ăn vận kiểu thiếu niên, thảnh thơi ôm đầu gối ngồi đó, cằm cũng gác trên đầu gối, nhìn tiểu hoàng môn gõ mõ và Vũ Lâm quân tuần đêm đi qua dưới chân, không ai ngờ rằng trên nóc mái hiên Ninh Thái Môn lại có một người nhàn rỗi ngồi. Ninh Thái Môn là cổng chính trục giữa ngăn cách nội cung và ngoại đình, từ đó nhìn xuống có thể thấy rất rõ mọi lối hành lang và mái hiên bốn góc của lục cung trải từ đông sang tây.
(*) Một kiểu mái nhà trong kiến trúc cổ Trung Quốc.
Ngoài cửa hông tây nam có tiếng xe ngựa, đó là đám lăng nhân quản lí kho băng ngự dụng đi lấy băng đá từ kho băng dưới dãy Ảm Lam, nhân lúc trời đêm mát mẻ vận chuyển vào cung. Hải Thị lẹ làng đứng dậy, chạy dọc theo sống nóc Ninh Thái Môn, tiếp đó nhún mình bật nhảy, không tiếng động qua lại giữa các nóc điện, nhanh chóng ẩn thân trong mái hiên Vị Ương cung, quan sát con đường từ cửa hông tây nam dẫn tới ngự thiện phòng. Xe la vận chuyển băng đá do vài người lính Vũ Lâm áp tải, chúng lăng nhân đi theo bên cạnh. Đến chỗ rẽ, một người trong đám lăng nhân tự quẹo sang đường khác, đi theo hướng tây bắc, kì lạ là mấy tay Vũ Lâm hoàn toàn làm như không thấy, những lăng nhân còn lại cũng tỉnh rụi đi thẳng về phía ngự thiện phòng.
Hải Thị chuyển động con ngươi như điểm sơn, dõi theo hướng đi của tên lăng nhân kia. Theo hướng con đường đó chỉ có thể đến Phượng Ngô cung và Dũ An cung. Sau khi Yên Lăng đế cơ xảy ra chuyện, đến nay Phượng Ngô cung vẫn bỏ trống, Dũ An cung thì là nơi ở của Thục Dung phi Đề Lan, công chúa Chú Liễn.
Dũ An cung vẫn sáng đèn, rèm cửa sổ bằng sa mỏng đỏ tím kiểu Chú Liễn phấp phới trong gió.
Hải Thị rời khỏi mái hiên, nhảy lên nóc Vị Ương cung, rảo bước đến Dụ An cung.
Người đàn ông cải trang lăng nhân đi đến cửa hông Dũ An cung, ngó một lượt hai bên trái phải, vừa định vươn tay đẩy cửa thì chim đêm trên tường cung chợt giật mình. Đưa mắt qua, một con chẳng biết là chim gì phành phạch bay đi, trên bầu không đêm lặng treo mảnh trăng lưỡi liềm lạnh lẽo. Y thở phào một hơi thật nhẹ, đẩy cửa hông khép hờ ra, lách người vào rồi cài lại cánh cửa, cũng không quan sát chung quanh mà cứ thế thành thạo chọn lối nhỏ trong vườn đi tiếp, băng qua hành lang Dũ An cung, vòng qua thiên điện của cung nhân trực ban, đi thẳng lên gác nhỏ.
Dường như cung nhân trước cửa gác nhỏ đã quen với việc nửa đêm có lăng nhân tới thăm, thi lễ rồi lập tức tránh sang một bên nhường đường.
“Chấn Sơ!” Một giọng nữ hơi khàn gọi tên tự của y, y còn chưa kịp phản ứng đã nghe thấy một đôi chân trần nuột nà chạy vụt trên sàn nhà, chớp mắt tiếp theo, có cô gái kéo áo bào diễm lệ nhào vào lòng y như cánh bướm.
“Đề Lan, sao lần nào nàng cũng không thận trọng vậy chứ.” Người đàn ông cau mày, trong mắt lại chẳng có ý trách cứ nặng nề.
Thục Dung phi môi đỏ răng trắng nở nụ cười vui vẻ, “Lần trước Thang đại tướng quân đến Thiên Khải, ừm, để thϊếp nghĩ xem,” Ả ngoẹo đầu, sợi tóc đen nhánh rủ xuống, “Là chuyện của mùa hè năm ngoái rồi, thϊếp mà còn thận trọng nữa thì chỉ e chưa gặp được chàng đã già rồi.”
Ả nũng nịu nói nói một hồi, lại cầm lòng không đậu dậy nỗi xót xa, thê lương nhuốm lên thần sắc.
Thang Càn Tự cười bất đắc dĩ, “Nàng nhìn nàng xem, đã hăm tám hăm chín tuổi rồi mà vẫn như trẻ con vậy, bao nhiêu năm nay chẳng tiến bộ gì cả.”
Cửa sổ mở hé, rèm sa đỏ tím phập phồng lớp lớp. Cạnh đấu củng dưới hiên treo ngược một bóng đen mảnh khảnh. Là Hải Thị.
Thì ra là vậy, Hải Thị khẽ nhướng mày. Thang Càn Tự là đại tướng trấn thủ biên cương, một khi vào kinh ắt sẽ liên miên những bữa xã giao sênh ca thù tạc, muốn gặp ai đó trong triều chẳng phải chuyện gì quá khó. Y mạo hiểm truyền tin ngay trên triều như vậy mà không phải để gặp quan viên trong triều thì tất là muốn hội ngộ người trong cung.
Hải Thị từng nghe kể, năm xưa người Chú Liễn đưa Tử Trâm công chúa tới theo thông lệ giữa hai nước, yêu cầu đổi một hoàng tử mang về Chú Liễn làm tin. Vừa hay khi đó Nhϊếp phi, mẹ ruột Sưởng vương, tranh sủng địch không lại Tống phi, mẹ ruột quân vương, Sưởng vương mười một tuổi Quý Sưởng liền bị đưa sang Chú Liễn, cung nhân đi theo không phải già yếu thì cũng là non trẻ. Theo lệ, hoàng tử xuất hành phải phái một Vũ Lâm ngũ thiên kị cùng năm ngàn quân sĩ đi theo hộ tống, Binh bộ bị Tống phi xúi giục, chọn cái tên cuối cùng trong danh sách lính mới tham gia kì thi võ cấm quân năm ấy, đề bạt thiếu niên mười lăm tuổi kia lên chức ngũ thiên kị như một trò đùa, ghép cùng năm ngàn tân binh theo Sưởng vương đi Chú Liễn. Tình cảnh của đám người Sưởng vương thê lương không khác gì đi đày, đến sứ giả Chú Liễn cũng dám quát mắng vị hoàng tử này. Nhóm Sưởng vương đi được một tháng thì chồng bài thi văn môn binh pháp của cấm quân gỡ niêm phong, thiếu niên Thang Càn Tự bị phong làm ngũ thiên kị như trò đùa ấy cuối cùng đứng nhất thi văn, đuổi theo không kịp. Ba năm sau, Nghi vương làm phản, Phần Dương quận vương cũng làm phản theo, ông ta là cậu của Sưởng vương, em trai Nhϊếp phi. Quý Sưởng lập tức sai người gửi thư từ Chú Liễn về cho Trọng Húc, lòng như dao cắt trần tình tuyệt không hai lòng, sau đó liên tục gửi lương thảo tình báo từ Chú Liễn qua eo biển Oanh Ca về Hãn Châu suốt tám năm, giúp ích không nhỏ. Sau khi Đế Húc đăng cơ, Sưởng vương lập tức về nước, cùng trở về còn có công chúa Đề Lan Chú Liễn hiến dâng, và ngũ thiên kị Thang Càn Tự. Dù mười năm liền không được thăng chức nhưng ngũ thiên kị hai mươi lăm tuổi cũng xem như trẻ trung. Sưởng vương hai mươi mốt tuổi cơ hồ vẫn là một thiếu niên, ngày ngày sa vào ăn chơi đàng điếm, các hạ thần ôm kì vọng to lớn vào Quý Sưởng nhanh chóng phải thất vọng. Nghe nói, số lương thảo và mật báo từng được chuyển về trong cảnh lửa sém lông mày suốt tám năm loạn lạc đó đều do một tay Thang Càn Tự lo liệu.
Trong song cửa liên miên tiếng người, Hải Thị hơi nghiêng người, nhòm vào từ khe hở giữa rèm sa.
Thang Càn Tự bị đẩy tới sập lùn ngồi xuống, Đề Lan thì lại để chân trần ngồi bệt xuống đất như không chịu nổi nóng bức, gối đầu lên đầu gối y, “Chấn Sơ, gần đây chàng phải cẩn thận đấy. Người kia, hắn càng ngày càng quái đản, chàng mà để lộ tài năng quá, nói không chừng lại…”
“Nàng không cần phải để ý đến những chuyện này, chỉ cần sống tốt cuộc sống của mình cho ta yên tâm là được.” Thang Càn Tự vuốt ve mái tóc dài đen nhánh mát lạnh của Đề Lan.
Đề Lan vội ngẩng đầu nhìn y: “Chàng không biết đâu, Chấn Sơ, người kia đã chẳng còn giống người nữa rồi, thϊếp…” Môi ả run run không sao nói thành lời, chỉ vén ống tay áo tơ lụa Chú Liễn xanh biếc đỏ thắm lên, trên cánh tay trắng nõn rải rác bầm tím.
“Nàng…” Thang Càn Tự đột ngột siết chặt hai nắm đấm.
“Thϊếp sợ, Chấn Sơ,” Rốt cuộc, Đề Lan bật khóc, “Thϊếp sợ chết, thϊếp sợ thϊếp chết chàng còn sống, hoặc là chàng chết thϊếp còn sống. Thϊếp sợ thϊếp chịu đựng mười bốn năm, đến cùng vẫn chẳng thể sống cùng chàng.”
Ả chợt bám lên vai Thang Càn Tự, tuôn lệ ròng ròng há miệng cắn, không phải làm nũng, không phải hờn dỗi mà là liều mạng cắn nghiến, thật lòng muốn để lại vết thương.
Y không phải đàn ông quân ngũ cường tráng, nhập ngũ nhiều năm chưa từng động đến đao kiếm, bờ vai gầy thẳng như của một thư sinh thiếu niên, song y vẫn cắn răng chịu đựng, mặc cho ả cắn.
“Thϊếp cầu khấn thần đuôi rồng mỗi ngày mỗi đêm, chỉ sợ người không chịu ban cho thϊếp phúc phận ấy.” Đề Lan buông miệng, khuôn mặt nhỏ đầm đìa nước mắt vùi vào vai y, mái tóc đen che kín nửa thân, vụn vỡ lộn xộn nỉ non: “Thϊếp hận chàng, thϊếp hận chàng tự tay đưa thϊếp cho người kia.”
“Nàng hối hận rồi ư? Hối hận đến Đông Lục cùng ta.” Thang Càn Tự nắm hai vai Đề Lan, buộc ả mặt đối mặt với mình.
“Phải.” Môi Đề Lan đẫm lệ, đỏ mọng ướŧ áŧ, “Đáng ra thϊếp nên chặt cụt chân chàng, giữ chàng lại Chú Liễn.”
“Sắp rồi, Đề Lan, sắp rồi, hẳn là chim cắt xanh đã được đưa vào phủ Sưởng vương trong tối nay. Chỉ cần người kia chết, ta tuyệt sẽ không thiếu nợ nàng bất cứ điều gì nữa.”
Trong mắt Đề Lan bốc lên ngọn lửa hừng hực, vui buồn lẫn lộn, “Chấn Sơ, người kia… sẽ chết chứ?”
“Nhất định.” Y cam đoan.
—— “Người kia” mà Đề Lan nhắc đến, Hải Thị bỗng kinh hãi ngộ ra, đó là Đế Húc.
Hải Thị bí mật trở về Tễ Phong Quán, phòng Phương Chư hãy còn sáng đèn, giơ tay định gõ cửa, lại chần chừ. Đương lưỡng lự, giọng nói trầm tĩnh trong cửa cất tiếng hỏi “Sao vậy”, nàng lại bỗng hạ quyết tâm đẩy cửa đi vào, thì ra Trạc Anh cũng ở đây, mới cảm thấy bớt lúng túng hơn chút.
Nghe xong lời Hải Thị trần thuật, sắc mặt Phương Chư vẫn như thường, ung dung nói: “Để Thang Càn Tự làm võ tướng thật thiệt thòi cho y quá. Sưởng vương có lòng làm phản, Thang Càn Tự theo hắn mười một năm, là bề tôi chân tay của hắn, muốn thành được chuyện phản nghịch không thể thiếu người này. Trước đây dặn con chú ý y chính là vì lẽ đó. Hôm nay tình hình có biến, sau khi trở về Hoàng Tuyền Quan, dẫu ta từ kinh thành gửi thư cho con, con cũng không cần ra tay với y. Y không chết, chuyện của chúng cũng chẳng thành được. Con ra ngoài trước đi, ta có việc cần bàn với Trạc Anh.”
Hải Thị kiên cường nén lệ hành lễ, không nói hai lời đi ra cửa. Tiếng bước chân không kiềm chế được càng ngày càng nhanh, sau cùng gần như chạy khỏi sân Phương Chư.
Trạc Anh nghe hiểu, có hơi không đành lòng, “Nghĩa phụ, không nói chuyện này cho Hải Thị biết, ngộ nhỡ…”
Phương Chư ngắt lời cậu, “Bụng dạ Hải Thị thẳng như ruột ngựa, để lộ dấu vết khéo lại không hay. Con phải về Hãn Châu, đây chính là cơ duyên hiếm có, không thể lơ là bỏ lỡ. Anh con Tả Bồ Đôn vương và chú con Hữu Bồ Đôn vương Ngạch Nhĩ Tề xưa nay bất hoà, con trở về vừa hay có việc để làm, ta cũng sẽ sai người đi hỗ trợ con.”
“… Vâng.” Trạc Anh đáp, lại như có gì muốn nói mà thôi.
Phương Chư mỉm cười, vỗ vai Trạc Anh, “Cô nương Chá Lựu kia chứ gì, ta sẽ chiếu cố cho con bé, không để nó chịu tủi.”
Trạc Anh gật đầu thật sâu, nói: “Thề không làm nhục sứ mạng.”
Phương Chư lại cười, khuôn mặt thanh nhã như thiếu niên, “Đây cũng là con đường trước mắt của chính con. Nhớ, mồng một tháng này, ta và con luân phiên trực Kim Thành Cung.”
“Nghĩa phụ…” Trạc Anh đứng dậy, chân đến cửa rồi bỗng lưỡng lự ngập ngừng, “Hải Thị, muội ấy đối với người…”
Người đàn ông bào trắng đoan chính ôn hòa không cho cậu nói thêm nữa, cười khổ lắc đầu, “Trạc Anh, ta đã thế này rồi, tội gì làm liên lụy sang một đứa bé.”
Trạc Anh ngây người một thoáng, hấp tấp hành lễ rồi chạy ra ngoài tìm suốt một đường.
Lúc tìm thấy Hải Thị, nàng đang nằm trên nóc nhà, nghe tiếng cậu tới vẫn nhắm mắt như cũ, chẳng biết là đang ngủ hay chỉ đang cáu bẳn – ngói lưu ly lồi lõm cứng lạnh như vậy, nếu không phải họ là người tập võ thì căn bản khó mà nằm yên ổn cho được, càng đừng bàn đến ngủ.
Trạc Anh cũng không nhiều lời, tự gỡ cái nậm bạc dưới sườn xuống huơ huơ trước mặt Hải Thị. Hải Thị chẳng mở mắt, đưa tay nắm nậm bạc, mở ra rồi uống ừng ực một mạch. Sảng khoái khà một hơi mới hé mắt nhìn Trạc Anh, nhoẻn cười.
Trạc Anh nằm xuống song song với nàng, hỏi: “Sao thế?”
“Cũng không có gì.” Hải Thị thấp giọng đáp, “Chỉ là ban nãy nghe Thục Dung phi nói một câu, trong lòng tự dưng khó chịu quá.”
Trạc Anh nhận lại nậm rượu về một hơi uống cạn, “Câu gì?”
“Thục Dung phi nói với Thang tướng quân là ả rất hận y, hận y tự tay đưa ả cho người khác. Muội cảm thấy sớm muộn gì nghĩa phụ cũng sẽ tự tay đưa muội cho người khác.”
Trạc Anh quay sang ngó nàng, Hải Thị lim dim như không thắng được sức rượu. Cậu nhìn vầng trăng dần ngả về tây ẩn hiện trong rừng, đã mang hình móc câu mỏng dẹt – ngày mồng một sắp tới.
Hôm sau, Trạc Anh đến Chức Tạo Phường thăm Chá Lựu. Mùa hoa đã gần tàn, trên cây đơm chùm rực rỡ như đồ mi. Sân nhỏ đã mấy ngày không có ai quét tước, mặt đất chồng lớp lớp đỏ ối. Mấy ngày trước Chá Lựu đã bị Sưởng vương phủ đón đi truyền thụ tay nghề, đến nay chưa về.
Lại một ngày trôi qua, chẳng biết tại sao Phương Chư bỗng nổi hứng uống rượu, bảo Trạc Anh đi Đề Hồ Lâu phía tây thành mua một vò Thiên Niên Bích. Trước khi Trạc Anh ra cửa, Phương Chư dặn dò: “Hôm nay Thi thúc thúc của con phái người đến Sưởng vương phủ đón Chá Lựu về cung, con đi sớm về sớm. Hôm nay không gặp được, sau này sợ rằng sẽ càng khó hơn.”
Trạc Anh vâng dạ rồi cấp tốc lui xuống, dắt con “Phong Tuấn” đắc ý nhất trong chuồng ngựa ra, đánh ngựa phóng thẳng tới Thùy Hoa Môn gần nhất.
Mười hai cấm vệ canh giữ Thùy Hoa Môn nghe thấy tiếng vó ngựa xa xa từ trong cung hướng về phía này, vừa định quay đầu xem cho rõ, nào ngờ con ngựa kia đã lướt qua trước mắt, thế như bão táp, phóng thẳng ra khỏi Thùy Hoa Môn, suýt nữa đánh lật một cỗ xe la vải xanh.
Người trong xe nghe người hô ngựa hí, vén rèm lên, một cung nhân già vội tiến lại đỡ tay cô: “Tú sư, không làm ngài sợ chứ?”
Chá Lựu lắc đầu cười nhẹ: “Không sao. Mới nãy sao thế ạ?”
“Than ôi, mụ đây cũng nào biết đâu, đám cấm vệ trẻ tuổi trong cung bây giờ càng ngày càng không có phép tắc.”
Cấm vệ thanh minh: “Bà bà, không phải chúng tôi không tận tâm với cương vị đâu, vị kia là thiên kị Phương đại nhân của chúng tôi, ngài ấy được cho phép cưỡi ngựa trong cung mà.”
Chá Lựu mỉm cười, nói: “Dì Tô, bỏ đi, chắc là người ta có việc gấp. Chúng ta đi thôi.”
Cung nhân già đỡ vững hai tay Chá Lựu: “Nào, tú sư, chúng ta đến Thùy Hoa Môn rồi, không phải xe liễn ngự dụng thì không được vào cung, để mụ đỡ ngài vào.”
Đưa Chá Lựu đến biệt viện rồi, cung nhân già lại bắt đầu lải nhải, “Dưới đất toàn hoa là hoa thế này, không được, không được” rồi cố ý để Chá Lựu ngồi trên ghế đá trong sân, tự cầm một cây chổi nhỏ đi quét sân, Chá Lựu cũng chỉ đành mặc mụ sắp xếp. Hôm ấy trời nắng đẹp, ong bướm dập dờn, chợt có cánh hoa vụn chui vào gáy áo Chá Lựu, cô bèn cúi gương mặt nhỏ nhắn như cánh sen xuống, phủi gáy như không chịu được ngứa. Nghe có tiếng bước chân dần lại gần, cô ngạc nhiên nghiêng mặt, suy nghĩ chốc lát, lộ vẻ nghi hoặc: “Ngài là…”
“Qua mấy ngày nữa chắc cây chá lựu này sẽ bắt đầu kết quả nhỉ?” Khách tới ngữ điệu ôn hòa, ấm ấp như gió xuân phả vào mặt, Chá Lựu chỉ cảm thấy giọng người nọ như đã từng nghe thấy đâu đây, lại nhất thời không nhớ nổi là ai.
“Cây chá lựu này thuộc giống hoa đỏ ngàn cánh, phàm là chá lựu ngàn cánh đều không kết quả, có kết quả, bên trong cũng không có hạt ạ.” Chá Lựu kính cẩn trả lời, bỗng giơ tay che miệng, vội vàng đứng dậy thi lễ, “Phương tổng quản, Chá Lựu vô lễ, xin ngài thứ tội.”
“Không cần phải câu nệ thế đâu.” Phương Chư cười nhẹ rồi lại khẽ thở dài, “Nói vậy, hoa đỏ rợp cây thế này cuối cùng chỉ nở suông một mùa hè vậy thôi sao.”
Chá Lựu không biết phải đáp thế nào, chỉ đành cúi mặt.
“Chá Lựu cô nương.”
“Dạ.” Chá Lựu mờ mịt ngẩng đầu lên.
“Hiện giờ Trạc Anh đang gặp nguy hiểm đến tính mạng, lửa sém lông mày.” Giọng vẫn bình thản ôn hòa, nghe không ra một gợn sóng.
Hai bàn tay khéo léo của Chá Lựu đặt trên vạt váy, im lặng nắm chặt.
“Nó là con út của Hộc Khố vương và Hồng Dược đế cơ, chỉ bằng vào dung mạo giống Hộc Khố vương tuyệt đối của nó đã đủ tư cách thừa kế ngôi vương rồi. Hiện giờ Sưởng vương câu kết với Tả Bồ Đôn vương, huynh trưởng ruột thịt của Trạc Anh, muốn vạch trần thân thế nó, mượn tay hoàng thượng diệt bỏ Trạc Anh.”
Con ngươi màu trà nhạt của Chá Lựu như chớp như không soi về phía Phương Chư như thể đôi mắt mù lòa ấy vẫn còn khả năng nhìn được điều gì trên mặt chàng.
“Ta muốn Trạc Anh về Hãn Châu nương nhờ chú nó, nhưng nó là một thằng bé ngốc trọng tình trọng nghĩa – Nó nói, không có cô đi cùng, nó sẽ không đi. Nhưng con đường phía trước hung hiểm như vậy, dẫu võ nghệ nó có siêu quần, e rằng cũng chỉ đủ tự vệ. Ta sợ thằng bé quyết ý muốn chịu chết.” Chàng không nhanh không chậm nói hết, cũng chẳng có vẻ gì là muốn đợi cô đáp lời, hồi lâu không nói thêm nữa.
Gió phơn rít gào thổi qua, đỏ tàn xanh khuyết đìu hiu như dệt cửi. Cánh hoa tựa mã não tích đầy đất bay lên vờn gió xoay tròn dưới thấp, hệt một làn sóng đào im ắng vỗ lên vạt váy cô. Chá Lựu lặng thinh quay người lại, Phương Chư phát hiện ra khóe miệng cô gái mù ngậm nụ cười kiên quyết.
“Phương tổng quản, tôi biết phải làm thế nào.”
“Cô biết?” Chàng nhướng một bên mày.
“Chỉ xin Phương tổng quản chuyển cho chàng một câu – Nếu chàng không quý trọng tính mạng mình thì cái mạng này của Chá Lựu phải mất uổng rồi.”
Phương Chư không trả lời cô, chỉ gật đầu như thể cô thật sự nhìn thấy, đoạn xoay người rời đi.
Chá Lựu nghe chàng đi xa rồi, cất tiếng gọi: “Dì Tô?”
Phịch một tiếng như cây chổi rơi xuống đất, cung nhân già tay run rẩy vòng từ sau nhà ra, hồi lâu không mở lời, chỉ quỳ xuống với Chá Lựu.
“Dì Tô yên tâm, Chá Lựu tuyệt đối sẽ không làm liên lụy tới dì, thừa dịp bây giờ không ai, dì mau đi đi.” Chá Lựu mỉm cười, vô cùng áy náy.
Cung nhân già hơi chần chừ rồi vội vã chạy ra ngoài cửa, giữa đường lảo đảo, va phải cánh cửa nghe loảng xoảng.
Chá Lựu lần mò đóng cửa, đi vào nhà, gió phơn sau lưng khuấy đảo những cánh hoa đỏ rực trong khoảng sân tịch mịch.
Đứng quầy bán rượu ở Đề Hồ Lâu đều là phụ nữ người Man, tên rượu cũng rất có phong tình, nào Lục Yêu, nào Hạt Cổ rồi Hồ Toàn đủ loại, loại Phương Chư chỉ đích danh yêu cầu là Thiên Niên Bích thì lại chưa từng được xếp vào bảng tên rượu trước quầy. Một cô gái người Man tóc đỏ trong quầy đang cúi đầu tính toán sổ sách, nghe thấy Trạc Anh gọi một vò Thiên Niên Bích, lười biếng ngẩng lên nhìn cậu, chiếc trâm tua bằng vàng kiểu Hộc Khố cắm trên búi tóc tức thì đong đưa yểu điệu, chuỗi ngọc đá lựu đá trám lấp lánh động lòng người. Cô gái quay người gọi tiểu nhị lựa một vò ngon tới rồi tiếp tục cúi đầu tính toán sổ sách, gảy đồng tiền nghe leng keng giòn giã, miệng thì lại lẩm bẩm: “Đoạt Hãn nhĩ tát.”
Trong lòng Trạc Anh chấn động. Đoạt Hãn là tên Man của của cậu, nhĩ tát là cách gọi kính trọng của người Hộc Khố với thiếu chủ của họ. Đã mười lăm năm rồi không nghe ai gọi cậu như vậy. Cậu mở miệng, tiếng Hộc Khố thốt ra đến chính cậu cũng cảm thấy xa lạ trúc trắc, “Cô là người của Đoạt Lạc?”
Cô gái người Man ngước đôi mắt xanh biếc lên, lại nhanh chóng cụp xuống, “Tả Bồ Đôn vương tránh Đoạt Hãn nhĩ tát còn chẳng kịp, sao có thể phái người đi tìm tung tích ngài? Là Hữu Bồ Đôn vương lệnh chúng tôi tới đây tiếp ứng cho Đoạt Hãn nhĩ tát.”
“Là Ngạch Nhĩ Tề thúc thúc…” Trạc Anh cảm xúc phức tạp. Anh em ruột thịt còn chẳng có thiên tính máu mủ thì chú cháu có thể trông cậy được gì đây? Chỉ coi cậu là ưng là khuyển, là một con cờ mà thôi.
Tiểu nhị mang rượu ra, buộc chắc vào lưng ngựa cho Trạc Anh.
Cô gái người Man kia vừa vun đồng tiền lên cân tiểu ly, vừa thấp giọng nói: “Trong niêm phong đất sét trên vò rượu có bản đồ các nơi tiếp ứng, có thể thay ngựa. Xin Đoạt Hãn nhĩ tát nhất định phải ra khỏi Mạc Hột Quan trong tháng Tám, sẽ có người hộ tống ngài vượt biên giới Già Mãn trở về Hộc Khố.”
Trạc Anh gật đầu, ước lượng số tiền trả lại, hơi cau mày, “Một vò tám đồng?”
Cô gái Man che miệng cười, đổi sang tiếng quan thoại, cất cao giọng: “Thiếu gia xuất thân nhà phú quý, không hay ra ngoài đi lại phải không? Hồi xưa trên phố khó gặp đĩnh vàng nhưng kể từ ngày quốc khố cứu trợ đến nay, vàng tuôn rào rào trên phố lớn như nước ấy, đã chẳng còn hiếm lạ nữa rồi. Trước mắt một đĩnh vàng chỉ đổi được bốn mươi hai đĩnh bạc, cái giá này chẳng biết còn cầm cự được bao lâu.”
Trạc Anh không tranh cãi với cô ta, ra cửa lên ngựa, thấy mặt trời đã lên lưng chừng trời, hẳn Chá Lựu đã rời Sưởng vương phủ về cung, bèn vội vã giục ngựa, chớp mắt đã lao lên đường. Tiểu nhị đang líu lưỡi thì bỗng nghe thấy tiếng ngựa hí, Trạc Anh cưỡi ngựa quay về, đứng ngoài cửa tiệm vung tay ném túi tiền lẻ ban nãy và hai đĩnh vàng khác trở lại quầy, bóng người xoay ngoắt, nhoáng cái đã lên ngựa phóng đi. Cô gái người Man kinh ngạc đưa tay lên định vuốt lại tóc mai bị bung rối, bấy giờ mới nhận ra trâm đã không còn, tiếng vó ngựa cũng đã xa.
Mùa hoa hè nở rộ hết cỡ, đã đến lúc nỏ mạnh hết đà. Phong Tuấn lướt qua, dưới trời xanh tung bay một đường hoa rụng. Trạc Anh quất từng roi, chỉ muốn mau mau chóng chóng về cung sớm được khắc nào hay khắc ấy – Chá Lựu, Chá Lựu.
Khi qua Thùy Hoa Môn, trong cửa bỗng ló ra một chiếc xe đẩy bằng gỗ, lúc này Phong Tuấn đã phóng như sắp bay, mắt thấy tránh không kịp, lính canh cổng và người đẩy xe sợ hãi la toáng chạy tứ tán. Trạc Anh nhíu mày, dứt khoát buông cương, mặc Phong Tuấn tự phân biệt phương hướng, bốn vó bật mạnh, nhảy vọt qua xe đẩy gỗ, xộc vào cửa, hất bụi chạy đi.
“Nguy hiểm quá nguy hiểm quá.” Một tên lính canh ngồi bệt trên đất hít hơi hổn hển, chống tay vào thành xe đẩy đứng dậy, bỗng hét thất thanh: “Ơ! Đây là…!” Vải trắng trùm trên xe đã bị vén lên, hóa ra là một cái xác, thân hình gầy đét, da mặt khô quắt, mặc trang phục cung nhân.
“Đây không phải là bà bà hầu hạ tú sư à? Sáng nay vào cung còn khỏe mạnh cơ mà, sao qua trưa đã chết mất rồi?”
Tiểu hoàng môn đẩy xe mặt như đưa đám: “Ai biết được, đang đi đến chỗ thềm mười mấy bậc dưới Trường Kỳ Đình thì tự dưng ngã gãy cổ, không rên một tiếng nào, đến lúc bọn tôi phát hiện ra thì đã sớm tắt thở rồi.”
Trạc Anh đưa Phong Tuấn vào chuồng ngựa, gỡ niêm phong đất sét trên miệng vò xuống, lấy bản đồ bỏ vào ngực áo rồi guồng chân chạy như bay về phía Chức Tạo Phường. Hải Thị gọi cậu, cậu cũng chẳng kịp đáp – Chá Lựu.
Chuyến này biệt ly nhiều năm, trọn kiếp cũng chưa chắc đã hẹn ngày gặp lại. Tính cô ngay thẳng điềm đạm không phiền người khác phải quan tâm, cậu biết, chẳng cần cậu dặn dò mặc thêm áo, ăn thêm cơm, bớt suy nghĩ, cẩn thận bảo trọng thế này thế kia, Chá Lựu cũng có thể lo liệu được thỏa đáng cho bản thân, nhưng cứ phải nghe chính miệng cô ưng thuận với mình mới xem như từ biệt, dẫu phải đợi chờ cũng có câu dặn dò này ở bên.
Cổng sân khóa trái, gõ mấy lần không thấy ai đáp, Trạc Anh chống tay lên bờ tường nhún người, thân mình lập tức bay nghiêng vào như én. Hải Thị theo sau đuổi đến, dừng bước trước tường viện, hai tay chống đầu gối thở hổn hển, ngước lên, gương mặt lộ vẻ đau thương cùng cực, hồi lâu không có động tác gì. Trước mặt nàng trống rỗng, chỉ có một bức tường trắng, bên trong là cây chá lựu vươn cành ra ngoài. Loài cây hoa có một không hai này của Đông Lục lẳng lặng đứng dưới bầu trời xanh, mải miết giơ cao một chùm đỏ rực, mặc gió lướt qua. Yên lặng mà tuyệt trần, khiến người ta kinh hãi trong lòng.
Hải Thị phun một hơi thở dài, tựa như muốn nôn hết những phiền muộn nặng trịch trong lòng ra.
Trong sân vắng ngắt như chết, sắc đỏ bay tung, buông thả lộn xộn như cũng biết rằng từ nay sẽ chẳng ai trông coi chúng nữa.
Từ giữa trưa đến chập tối. Bầu trời nhuộm tầng tầng sắc thái, tô lên từng vạt màu chàm, phủ thêm sắc cam rồi lại tán loang màu đỏ tím, cuối cùng đen đặc.
Then cửa rốt cuộc cũng có động tĩnh, Hải Thị dựa lưng vào cửa ngồi xổm nhảy bật dậy, quay đầu, cửa mở ra trước mặt nàng. Bộ trang phục võ quan trên người Trạc Anh vẫn chỉnh tề, đến một vết nhăn cũng không thấy, chỉ có đôi mắt đen láy ánh kim là mờ đυ.c khói bụi. Hải Thị đưa thanh kiếm ôm trong lòng lên, nói: “Trống canh Thương vừa đánh lúc nãy, phải đi trực rồi.”
Trạc Anh im lặng nhận lấy, ngón cái khẽ đẩy kiếm ra khỏi vỏ, chỉ một tấc, giơ lên trước mắt như muốn soi trong lưỡi kiếm đôi mắt chính mình.
Sao giăng chi chít như cát bạc, song không có trăng – đêm nay là đêm mồng một.